Nghèo khó, biếng lười, xấu xí


    Nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật thích viết
rằng những người làm tranh Đông Hồ chỉ là những người nông dân lúc rỗi rãi thì
vẽ thêm tranh. Mục đích của họ cốt cho người ta thấy nghệ thuật ở VN “gắn liền
với đời sống“.


   
 Có biết đâu làm
thế chỉ là một cách tốt nhất để phô ra một sự thật:
trong xã hội VN,
người ta sống và làm việc thiếu chuyên nghiệp.
Kỹ thuật cổ lỗ. Sự phân công lao
động
được chăng hay chớ.




   Tình trạng của nghề làm tranh cũng là tình
trạng của nghề dệt, nghề đúc đồng,

nghề làm muối, nghề làm đồ gốm, cả nghề làm ruộng… Chỗ nào người ta cũng thấy sự ngưng
trệ. Năng suất thấp. Con người uể oải.
Con người nhởn nhơ dông dài ngay
trong sự chăm chỉ của mình.
 


   
“Cối xay tre, nặng nề quay, từ ngàn đời nay, xay nắm thóc“. Trong lời
thuyết minh viết cho phim  Cây tre Việt Nam
1955, Thép Mới từng viết một câu văn
xuôi mang đầy chất thơ để hằn sâu vào tâm trí của nhiều thế hệ học sinh tiểu
học  chúng tôi như vậy.


   
Vào những năm năm mươi của thế kỷ trước, nó gợi một cảm giác về sự nhẫn
nại bất khuất kiên cường.


   
 Nhưng sang đến thế kỷ XXI này,
đọc lại, thấy dấu hiệu của một cuộc sống ù lì tăm tối.


    
Người Việt tự nhủ Đói cho sạch
rách cho thơm
. Ảo tưởng nhắc lại mãi nghe như có lý. Song khi người ta quá
nghèo thì khó lòng giữ được sự tử tế.


    
Mạnh tử từng nói, có hằng sản mới
hằng tâm
. Người châu Âu cũng hiểu thế.


   
Trong cuốn Một chuyến du hành đến
Đàng Ngoài 1688
, (bản của NXB Thế giới, 2006), một nhà thám hiểm người Anh
là  W.Dampier ghi lại một số nhận xét có
liên quan đến các hạng người ở đô thị VN thế kỷ XVII .


   
Đây là tầng lớp trên và bộ sậu của họ: “Những kẻ quyền quý thì tỏ ra
kiêu căng, hách dịch và tham lam trong khi đám lính tráng thì hỗn xược
.”


   
Đây là những kẻ dưới đáy: “Cư dân lớp dưới lại hay trộm cắp làm cho
nhà buôn và những người đến giao dịch ở đây bắt buộc phải canh gác cẩn thận về
đêm
“.


   
 Theo W. Dampier, sự hư hỏng của
con người bắt đầu bằng sự kém cỏi trong điều kiện sống mà người ta không cách
gì thay đổi.  Nhà cửa người Việt ngay ở
Kẻ Chợ, tức thủ đô, được tác giả mô tả là quá đơn sơ tầm thường. Nhà nhỏ và
thấp. Mấy tấm phên che dột nát tạm bợ. Bên trong chia làm nhiều gian, mỗi gian
có những cửa sổ để lấy ánh sáng thực chất là những lỗ đục xấu xí.


    
Theo lái buôn người Anh, nhà cửa như vậy thường làm mồi cho bọn người
trộm cắp. Chúng có thể dễ dàng thực hiện mưu đồ đào tường khoét ngách.


 
   Từ nhận xét trên có thể suy ra sự
thấp kém về trình độ sản xuất là nguồn gốc mọi tì vết xấu xa trong tính cách
người Việt. 


 
    Trước tiên là một tâm lý ngại ngùng mệt mỏi
không thấy hứng thú trong lao động.


 
   Đã nhiều người gặp nhau ở nhận xét là người
Việt khá chăm chỉ năng động. Nguyễn Văn Vĩnh tỏ ra tinh nhạy hơn người khi nêu
cùng lúc cái tình trạng nước đôi: người Việt vừa cần cù, vừa cho người ta cảm
thấy họ coi lao động là bất đắc dĩ, chẳng qua không có cách nào khác nên phải
chân lấm tay bùn vậy.


  
 “Nói tổng lại, trong nước Nam
ta, cần mẫn nhất chỉ có người làm ruộng, nhưng mà sự cần mẫn ấy, nhà làm ruộng
không  biết lấy làm vinh hạnh. Tay cầm
cây mạ, mà mắt vẫn trông bọn dài lưng tốn vải, lúc nào quăng được cái cày có
ích  mà cầm lấy cái bút lông thỏ vẽ hươu
vẽ vượn tả cảnh trên trờ dưới biển, thì cũng quăng đi ngay
.”


  
 Trong mục Xét tật mình, người chủ trì Đông
dương tạp chí
đã làm cái việc mà sau ông chưa ai dám làm là bóc mẽ cái gọi là tính siêng năng của bộ
phận chủ yếu trong cộng đồng như vậy.


 
   Cái nghèo kéo theo nhiều cái xấu khác.


     Đây là một đoạn tôi đã
trích  trong phần Người xưa cảnh tỉnh—thói hư tật xấu người Việt trong làm ăn buôn bán    
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2012/03/thoi-hu-tat-xau-nguoi-viet-trong-lam.html





Không lo xa,
dễ thoả mãn


    
Tôi luận rằng người nước Nam ta khi túng thiếu thì lo lắng thở than, trong lúc
đói lo một hồi mà thôi, chớ no không lo nữa.


     
Người nước của chúng ta, bởi không từng trải ít thấy rộng ít nghe xa (...) hễ
vừa mới động nở nòi ra một thí (1) là đổi tính đổi nết, làm bề làm thế (2),
muốn nghỉ mà ăn chơi. Bởi làm sao vậy? Bởi trong trăm người mới có một, thì là
trong một xóm ở chừng một trăm, người ấy đã đặng trên mấy bợm (3) khác. Có bạc
chục bạc trăm, cho vô cho ra, đã có người thiếu nợ mình rồi; cho nên hết muốn
ráng sức nữa. Vì vậy nhiều khi nghèo nàn khổ sở trở lại. Đến lúc nghèo rồi lại
than thở trách trời, sanh mình sao mà vận xấu, mới cho khá rồi lại làm cho nghèo,
tại trời không thương.





(1)     khá giả một


(2)     làm le, làm
dáng, khoe mẽ


(3)     bợm đây
không có nghĩa xấu mà chỉ có nghĩa bọn khác kẻ khác


 Lương
Dũ Thúc
,


Nông
cổ mín đàm
, 1902





 


     Trong cuốn Lịch sử tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài  in ở Paris 1778 ( Trích từ Tư liệu văn hiến
Thăng Long Hà Nội – Tuyển tập tư liệu phương Tây
 NXB Hà Nội 2010, nhà sử học
Nguyễn Thừa Hỷ chủ trì) giáo sĩ Jerome Richard 
cho biết.


    (…) Nghèo khổ quá khiến người ta chỉ nghĩ đến sinh tồn tức là phó mặc mình cho
sự biếng nhác bẩm sinh. Bộ máy hành chính
sẵn sàng “vét cạn” các mầm mống tài năng. Bộ máy này ngu dốt và kiêu căng,
nhưng có quyền lực. Họ đối xử với những người khéo tay hơn họ và giàu hơn như
nô lệ.


    
“Việc lớn thì kinh, việc nhỏ thì khinh, việc bình thường thì không
thích“--  thái độ con người với công việc
từng được cô lại trong một nhận xét thật gọn ghẽ (Nguyễn Tất Thịnh báoTiền phong, 6-10-06).


   
Nhiều nhân vật trong những truyện cười dân gian là những chàng lười. Ca
dao hóm hỉnh dựng lại một chân dung, rất sẵn trong nông thôn VN thời trung đại:


Con
cò đậu cọc cầu ao


Hỡi
cô yếm đào lấy chú tôi chăng


 Chú tôi tốt tóc đen răng


 Hay ăn làm biếng hay nằm ngủ trưa


 Ngày thì ngóng những ngày mưa


Đêm
thì ngóng những đêm thừa trống canh

.


  Các tài liệu tuyên truyền và cả sách giáo khoa trong các nhà trường
Hà Nội sau 1954 thường bảo những câu ca dao trên là để nói về bọn người giầu
có. Có biết đâu đó cũng là để nói về lớp cùng đinh trong xã hội. Giàu tham việc thất nghiệp tham ăn.
 


  Không
phải là người Việt không biết thực trạng kém cỏi trong làm ăn sản xuất của
mình. Nhưng do thiếu sự mở đường của trí tuệ nên người ta cảm thấy đó là cả một
định mệnh. Thấy  của thiên hạ cái gì cũng
hơn mình.


  
Bất lực. Cay đắng. Chán chường.


  Một
niềm tự ti nằm rất sâu trong tâm lý, mang lại nhiều biến thái kỳ quặc. Lo học
nhưng chỉ học mót học lỏm. Sợ người ta coi thường nên phải tìm cách nhấn mạnh
cái riêng, và nhắc đi nhắc lại rằng mình chẳng kém gì mọi người. Sống gồng lên
ra vẻ thế nọ thế kia, sẵn sàng giả dối cốt sao khỏi bị mất mặt.


  
  Xã hội thiếu đi sự năng động tìm
tòi. Của chìm chủa nổi đầy rẫy chung quanh mà không biết khai thác.


  
 Nhà nho xưa nhiều người kiêm cả
thầy lang. Trong một lần so sánh văn hóa Trung quốc và VN, Phan Ngọc nhắc lại
cái ý mà nhiều thế hệ nho sĩ truyền miệng với nhau. Đó là một nhận xét của
người Tầu: người Việt sống trên cả đống nguyên liệu dùng làm cây thuốc nhưng
vẫn chết vì thiếu thuốc
.  


   W.Dampier, trong cuốn sách nói trên, còn ghi
nhận một điều mà sau này các nhà nghiên cứu văn hóa VN từ Phan Kế Bính Đào Duy
Anh tới Nguyễn Văn Huyên, Lương Đức Thiệp … đều chia sẻ, là thói máu mê cờ bạc quá
nặng của người Việt. Khi rỗi rãi
người ta lao đầu vào cuộc đỏ đen một phần là vì bế tắc trong cuộc sống.


    
Toan tính duy nhất ở đây là ngẫu nhiên tìm được một cơ may giữa cảnh đời
 tuyệt vọng.  





Đã in trên TT&VH 2007 với đầu đề Làm ăn kém nên nghèo, 
bởi nghèo nên  xấu tính . 






Bổ sung





  Tính lười nhác của người Việt qua cái nhìn của
Nguyễn Văn Huyên





     Trong phần sưu tầm các ý kiến tổng quát về người Việt mang tên


Cái hay cái tốt mong manh,cái dở cái xấu bền chặt,


    (xem http://vuongtrinhan.blogspot.com/2012/11/cai-hay-cai-tot-mong-manh-cai-do-cai.html
),


chúng tôi cũng đã
giới thiệu các ý kiến của nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Văn Huyên về đặc tính lười nhác ở người Việt, nay xin trích lại.





    Chúng
tôi đặc biệt lưu ý là Nguyễn Văn Huyên đã nói tới mọi khía cạnh của sự lười nhác:


-- từ nguyên nhân
ra đời ,


-- các dạng biểu hiện đầy mâu thuẫn của nó


-- cho tới cái tình trạng bắt rễ sâu trong đời
sống khiến con người "giẫy ra không nổi" tức không sao có thể vượt thoát khỏi nó


-- và hậu quả mà
nó mang lại.





Các đầu đề nhỏ
cũng như các đoạn nhấn mạnh dưới đây là của VTN.





Thụ
động, bất lực, buông xuôi


    Họ cày ruộng, chân lội trong bùn, có khi
phải ngâm mình trong nư­ớc. Có những ngư­ời đi cả ngày đư­ờng chỉ cốt kiếm một gánh
củi khô. Như­ng tình trạng nhân công d­ư dật thư­ờng khiến con ng­ười lư­ời nhác. Họ trở nên vô tâm và
hay cãi cọ. Rất nhiều chứng tật khác nhau, những vụ rắc rối về hành chính,
những vụ xung đột vô cớ, đ­ược dịp nảy sinh và kết quả là bất công lại chồng
chất thêm.


     … Môi
trường làm sa sút sức khoẻ và tác động chẳng kém tới tính chất người Việt.
Sức nóng thường xuyên làm cho thần kinh uể oải và con người dễ buồn ngủ. Không
phải là hoàn toàn vô lý khi bảo rằng nhược điểm lớn nhất của con người nơi đây
lười biếng, hoặc ít nhất là cái
khuynh hướng buông trôi, thây kệ mọi việc.





Vấn đề nông dân Việt
Nam ở Bắc Kỳ,
1939








Biếng
nhác, vô cảm, lẩn tránh


   Hiện tượng quá đông dân và thường xuyên
thiếu việc làm khiến cho nhiều người có tâm lý sống ngày nào biết ngày ấy.
Ở thôn quê, những kẻ có chút tiền bạc hoặc có đủ ruộng chỉ còn thích ăn không ngồi rồi.


   Xét về phương diện tinh thần, xu hướng biếng
nhác này càng trầm trọng thêm bởi một nền giáo dục cổ lỗ và chưa bao giờ có
phương pháp. Thành ra có sự lười
biếng
về trí óc, có xu hướng dễ
dàng chấp nhận hết thảy và bắt chước hết thảy.


    Sau khi chất đầy trí nhớ các loại kinh
sách, nhà nho xưa kia chẳng còn nghĩ đến chuyện trau dồi trí tuệ nữa. Họ
thường già trước tuổi. Hoặc là họ nhẫn nhục chịu đựng cốt không để ai đó do
ganh ghét mà kiếm chuyện lôi thôi. Hoặc là họ sa vào thói chơi ngông đôi khi
cũng tinh tế đấy, nhưng dễ làm cạn kiệt cái năng lực phát minh cũng như năng
lực lập luận khoa học.


    
những nhà quan sát nước ngoài nhận xét người Việt hay trộm cắp và dối trá.
Trong một thời gian dài, người dân nước này chỉ được nhận một nền cai trị kém
cỏi, trong đó thấm sâu chính sách ngu dân. Cá nhân con người luôn luôn bị săn
đuổi, họ buộc phải bao quanh mình một tấm màn bí mật. Làng xã cũng vậy, trong
quan hệ với chính quyền trung ương, họ cố giữ lấy một thái độ nếu không độc lập
thì cũng ương bướng bất phục.





 Văn minh Việt Nam
1944








Cảm tính nặng hơn lý tính


     Nói chung
người Việt có chất nghệ sĩ nhiều hơn chất khoa học. Nhạy cảm hơn là có lý tính.
Yêu thích văn học và trang trí. Đa số chỉ mơ ước nghề làm quan là con đường đã
vạch sẵn, không đòi hỏi nhiều cố gắng độc đáo, mà lại đem đến nhiều vinh
hiển


    Chẳng có mặt nào của tính cách người Việt
lại không có mặt bù lại, và không gợi ra ngay tức khắc một bằng chứng ngược
lại. Chúng ta đã nói về tính biếng
nhác
sự uể oải của người Việt
,
nhưng người ta chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy, và
những người lao động sẵn sàng làm những công việc nặng nhọc trong khi chỉ nhận
được số tiền công rẻ mạt đến như vậy.


   Chúng ta cũng đã nói về tính phóng túng bông
lông và mơ mộng của người Việt. Thế mà chúng ta lại cũng dễ dàng khám phá ở người
dân nơi đây một đầu óc thực tế lạ lùng, nó quyết định chiều hướng tâm hồn người
nông dân và trở nên một vũ khí lợi hại trong tay những người thợ mỹ nghệ.


   Nếu tính hay thay đổi là đặc tính của người
Việt thì ta cũng phải ngạc nhiên mà nhận xét rằng trong bọn họ có một số kẻ là
những tay dai dẳng và bám riết người ta khi xin xỏ; là những kẻ sính kiện tụng
không ai địch nổi; là những học sinh sinh viên quyết chí săn đuổi bằng được
bằng cấp.







 Văn
minh Việt Nam
,1944



Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét