NỀN VĂN MINH SẼ THẾ NÀO NẾU NHƯ SỰ THẬT BỊ BẺ CONG HOẶC PHỦ NHẬN?

Khoai@

Entry này viết về kẻ "vong nô": Nhạc sĩ Tuấn Khanh.

Không khó để nhận ra một loạt các bài viết kỳ thị vùng miền theo chiều hướng tăng dần ở các cấp độ của Nhạc sĩ Tuấn Khanh. 



Đọc Blog Tuấn Khanh, ta sẽ nhận thấy ban đầu là vài bài viết về các khu công nghiệp khát nhân công nhưng vẫn treo biển “No. Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa”. Tiếp đến là bài tường thuật về bạo loạn Bình Dương, trong đó ám chỉ rằng cuộc bạo động đó là do những người Nghệ An, Thanh Hóa tổ chức, giật dây, và rằng, bạo lực và cướp giật, đập phá, côn đồ đều do người Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh gây ra. Sau khi bị dư luận phản ứng, những tưởng anh ta đã nhận ra và hồi tâm chuyển ý. Nhưng không, sau một thời gian vắng lặng, Tuấn Khanh lại tiếp tục tung ra bài "Di chúc Bắc Kỳ tự do". Đây là bài viết chia rẽ vùng miền không còn chỉ là huyện, tỉnh mà mở rộng hơn là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Bài viết thể hiện lối tư duy của đám lưu manh hơn là của một nhạc sĩ, cho dù nó được ngụy trang khéo léo ở việc dùng ngôn từ để giải thích vì sao người dân miền bắc di cư vào Nam năm 1954. (Đọc bằng cách bấm vào đây)

Thực ra, đây là chủ đề không mới, báo chí, sách vở, và mạng mẽo đã mô tả khá đầy đủ với các góc nhìn khác nhau. Việc tranh luận, phản bác là không hề xấu, trái lại, nó làm rõ lịch sử, và suy cho cùng là nó làm rõ sự thật. Cũng giống như Tuấn Khanh có bài viết mới nhất có tên "Sự Thật" đăng ngày hôm qua trên blog của anh ta. Đó là sự thật nào, xin được bình ở entry sau.

Trở lại vấn đề chính là vì sao có cuộc di cư năm 1954, nhiều người đã phản ứng với lối viết của Tuấn Khanh. Họ cho rằng, Tuấn Khanh dường như đang thực hiện âm mưu chia để trị mà thực dân Pháp đã áp dụng ở Việt Nam từ lâu và đã thất bại. Việc làm của Tuấn Khanh là vô ích và là hành động phỉ báng vào tổ tiên, giống nòi của anh ta. Những vấn đề về lịch sử các cuộc di dân đã nói rõ sự thật này và không cần nhắc lại ở đây.

Trong bài viết, Tuấn Khanh nói: "60 năm của những người Bắc di cư vào Nam, cho tôi và thế hệ của mình được nhìn rõ họ hơn, nhắc tôi phải nói về một bản di chúc lớn, một bản di chúc vĩ đại mà hơn một triệu người từ bến tàu Hà Nội, Hải Phòng…mang đến cho cả đất nước. Bản di chúc cũng được lưu giữ trong mắt, trong lời nói của từng người Việt tha hương khắp thế giới: bản di chúc về tự do". Như vậy, Tuấn Khanh kết luận rằng, người miền Bắc di cư vào miền Nam là đi tìm tự do!

Ngay trên Wiki đã viết: Sau trận Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp, tạm thời chia đôi Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự tại vĩ tuyến 17. Hệ thống bộ máy dân sự và lực lượng quân sự của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tập trung ở miền Bắc và hệ thống bộ máy dân sự và lực lượng quân sự của chính quyền Liên hiệp Pháp được tập trung ở miền Nam, chờ ngày tổng tuyển cử tự do dự kiến sẽ xảy ra vào ngày 20 tháng 7 năm 1956. Điều 14 phần (d) của Hiệp định cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến (Điều 2), tức chấm dứt vào ngày 19 tháng 5, 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày, còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày. 


Theo tuần báo Time, những người di cư vào miền Nam, chủ yếu là người Công giáo cho rằng họ đã sợ bị đàn áp tôn giáo, nhiều người di cư vì lý do kinh tế và chính trị: họ là những người làm việc cho Pháp, hay giới tư sản không có cảm tình với chính phủ Cộng sản. 

Lý do thật sự được phản ánh trong chính sử nước nhà cũng như từ những quan chức Mỹ thì nguyên nhân là những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức, và "dụ dỗ di cư". 


Khẳng định là hoàn toàn phù hợp với các tài liệu của Mỹ về hoạt động của Edward Lansdale, chuyên gia tình báo Mỹ hoạt động tại miền Bắc Việt Nam trong thời gian này, với nhiệm vụ làm suy yếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng mọi cách có thể. Theo đó, các linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo.

Lansdale và nhóm của ông đã thực hiện một chiến dịch tuyên truyền miêu tả rằng các điều kiện sắp tới dưới chính quyền Việt Minh sẽ ác nghiệt hết mức có thể. Trước tiên là chiến dịch tung tin đồn: tung ra câu chuyện một tiểu đoàn Trung hoa tại Bắc Kỳ đã trả thù một làng Việt Nam, phụ nữ bị hãm hiếp... điều đó làm cho người Việt lo sợ về một cuộc chiếm đóng của quân Trung Quốc. Nhóm này còn phân tán các tờ truyền đơn được giả mạo là của chính phủ Việt Minh, tạo các tin đồn về những chính sách khắc nghiệt, thuê các thầy bói tiên đoán về các tai họa sắp tới. 

Bản tường trình mật của Lansdale về nhiệm vụ của ông đã ghi nhận số người đăng ký di cư vào Nam tăng lên gấp 3 lần sau khi một tờ truyền đơn giả mạo được phát tán. Bernard Fall, nhà sử học nhận xét: Mọi người phải công nhận rằng cuộc di cư hàng loạt như thế chủ yếu là kết quả một cuộc hành quân chiến tranh tâm lý của Mỹ (và của cả quân đội Pháp).

Ông Tuân Đặng Ngọc, một chuyên gia nghiên cứu về tôn giáo tại Hà Nội đã nhận định: Trong hơn 1 triệu người ào ạt di cư vào Nam lúc ấy, đa số là giáo dân (78%) cùng với một bộ phận quan trọng của hàng giáo phẩm (3 giám mục, 618 linh mục). Đến cuối năm 1955, ở lại miền bắc còn 40% giáo dân (456 720 người) và 37% giáo sĩ (375 người). Họ là những người nông dân chất phác, nghèo khó, đói rách ra đi trước hết là với hy vọng kiếm được miếng ăn theo lời tuyên truyền "muốn có gạo theo đạo mà ăn", “Chúa đã vào Nam”, mà bộ máy tâm lý chiến của Mỹ, Pháp và tay sai thực hiện. Một bộ phận trong họ ra đi là để trốn chạy sự nguyền rủa về quá khứ làm tay sai cho thực dân Pháp đô hộ, về lịch sử tiếp tay cho thực dân xâm lược nước ta. Đó là giải thích xác đáng. 


Đọc thêm »
Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét