Những thay đổi đã đến với Hà Nội từ sau 1954: Tính nghiệp dư trong quản lý.


     Sau Cải cách ruộng đất, nhiều
nông dân được chia quả thực, có khi là cả
một phần những cơ ngơi nhà cửa và những đồng đất bờ xôi ruộng mật của địa chủ.


   
Nhưng nhiều người trong họ, nhất là những người được chia đậm, lại là những người chưa có của cải bao giờ, họ
không biết làm chủ.


   
Không những dốt nát kém cỏi, không biết làm cho của cải sinh sôi nẩy nở,
mà có khi một số người này còn rơi vào cảnh rượu chè cờ bạc, đến mức bán cả nhà cửa
và đẩy vợ con vào cảnh nghèo khó như cũ.




   
Nếu sự phá sản nói trên không phải là phổ biến đi chăng nữa (?), thì có điều chắc là những người mới phất lên này không sử dụng nhà cửa ruộng đồng -- mà họ được chia --- một cách hiệu quả,  như những
người đã đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được những tài sản ấy.


   
Với chúng ta, những người  chủ của
Hà Nội sau 10-10-54, cũng vậy.

       Trong đoàn quân tiếp quản thủ đô 60 năm trước, có nhiều chiến sĩ là con
em
  của Hà Nội. Từ 10-10-54, người chủ tịch Ủy ban hành chính
cũ của Hà Nội 1945-1946 là Trần Duy Hưng lại quay về lãnh
  chức vụ cũ.



    
Thế nhưng, đó chỉ là xét về bề
ngoài. Trung đoàn thủ đô không còn mấy người là dân cũ Hà Nội, mà có còn chăng
nữa, họ đã bị nông dân hóa.


      Còn với bác sĩ Trần Duy Hưng. Sự tồn tại của ông chỉ là trên danh
nghĩa,  bởi toàn bộ bộ máy dưới quyền ông và nhất là cái tinh thần
chỉ đạo hoạt động của bộ máy
 đã hoàn toàn thay đổi, nếu không nói là lật ngược
lại.


     


Từ các ghi nhận của Ph. Papin và Nguyễn Huy Tưởng




     Dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long,
nhiều tài liệu nghiên cứu về Hà Nội của người nước ngoài đã được dịch ra tiếng
Việt. Chính đọc những cuốn sách ấy người ta lại hiểu về Hà Nội hơn tất cả các
sách vở mà các nhà nghiên cứu Việt Nam đã viết.


    
  Lịch sử
Hà Nội
 của Philippe Papin là một trường  hợp như thế. Mô tả lại việc quản lý đời sống
Hà Nội sau 10-10-54,  nhà nghiên cứu này viết:


 Thành phố giờ đây được điều hành  theo tư tưởng của những cán bộ lãnh đạo từ
chiến khu trở về.


Họ không được
người Hà Nội nể phục, vì lẽ người dân ở đây quá hiểu về con đường đi tới cái
vai quản lý của các quan chức này.


 Họ vốn chỉ là những nông dân thô lỗ được thăng
quan tiến chức quá nhanh, những quan chức nhỏ nóng tính dốt nát song lại ưa sử
dụng  những ngôn từ to tát, những khái niệm
mác xít chưa thuần thục.
                 


         (Philippe Papin Lịch sử Hà Nội  Mạc Thu Hương
dịch từ tiếng Pháp, nhà  xuất bản Mỹ thuật 2010, trang  293-294 )




    
 


      Nguyễn Huy Tưởng vốn là một nhà
văn sinh ra và  lớn lên ở Hà Nội, sau 10-1954 lại trở về  với tư cách chủ
nhân của cái thành phố thân yêu.


    
 Ngay từ 1956 - 57, trong nhật ký của
mình, tác giả Sống mãi với Thủ đô đã
ghi lại những hiện tượng báo trước một tình trạng băng hoại lâu dài. Đây
cũng là những bằng chứng xác nhận cho nhận xét tổng quát nói trên của
Ph.Papin.




--(21-6-1956) Mậu
dịch tham ô lãng phí. Sữa để với muối, hỏng hết. Bơ để mốc. Máy gửi đi thiếu
các bộ phận. Peniciline hỏng hàng loạt, có đến triệu viên. (
Nhật ký Nguyễn 
Huy Tưởng

bản của nhà  Thanh Niên 2006, ba tập, tập 3, Tr 106
)




-- (11-9-1956 ) Đại
biểu khu phố Hà Nội là một con sen. Đi vận động các nhà làm sao. Than ôi! Thành
phần chủ nghĩa, cứ nhắm mắt mà làm.


  
Tư sản làm tốt không dùng. Sợ đề cao tư sản  (
sđd Tr 138 )




  ---  (13-4-1957)
Cái láo xược của cơ quan Bưu điện Bờ Hồ. Chẳng coi trọng gì quần chúng cả. Guichet Bưu điện máy bay sáng 11-4 đề biển
Vì bận học nên nghỉ từ 7 giờ đến 9 giờ. 
Và sáng hôm nay, khi khách đã đứng đầy ngoài cửa, bọn công nhân
viên vẫn ngồi  thảo luận, mặc kệ khách. Một người thấy chướng
quá, bảo, họ vẫn cứ ngồi thảo luận (
như
trên

tr
241
).





 Tính nghiệp dư thành xu thế kéo dài 


      Trong các bộ sử Việt nam của các tác giả
phương Tây viêt về Việt Nam tôi đọc được một nhận xét tổng quát về Nguyễn Ánh Gia Long thế
kỷ XIX: ông là người sinh ra để chiếm lại
đất nước, là người chiến thắng sau những cuộc nội chiến --, chứ không phải người
sinh ra để cai trị đất nước.


      Gia Long là nhân vật lịch sử quan trọng bị
nền sử học chính thống ở miền Bắc sau 1945 bôi nhọ một cách thậm tệ, đến mức không thể xấu hơn. 


       Thế
nhưng qua cách miêu tả như trên, hóa ra
--
trong
cái sứ mạng chủ yếu làm nên tính chính đáng của quyền lực trong lịch sử -- giữa ông và
chúng ta hôm nay giống nhau như hai giọt nước.







     Từ những quan  sát của Nguyễn Huy Tưởng, tôi thử  bình luận thêm về cách  quản lý của chúng ta đối với Hà Nội những năm
ấy.


--
Có của trong tay cũng không biết giữ. Trao cho những người chỉ quen
trông nom và làm chủ mấy cái chợ quê "dăm miếng cau khô mấy lọ phẩm
hồng
"( thơ Hoàng Cầm) ra quản lý một thành phố hiện đại.  


--
Mang cách sống cách làm việc của cuộc chiến tranh nhân dân dầm dề chậm
chạp vào việc quản lý cuộc sống năng động trong hòa bình. Phá vỡ nhịp
điệu bình thường của một thành phố hiện đại.


--
Không quan niệm rằng quản lý là một công việc cần
phải học hỏi, và phải có trình độ như thế nào đó mới làm nổi. Các loại
công việc liên quan đến đời sống hiện đại muôn vàn phức tạp  bị đặt vào
tay những người không có hiểu biết gì về xã hội.




   

   Cần
nói thêm rằng cái chuyện nghiệp dư chúng ta nói ở đây tự nhiên hoành hành và sống
khá dai dẳng đến vậy bởi lẽ:


-- nó là cái tinh thần chi phối từ đào tạo con người, sử
dụng nhân tài, tổ chức guồng máy nói chung.


-- nó cũng là nguyên tắc có mặt trên tất cả
mọi phương diện đời sống, cả trong sản xuất, kinh doanh lẫn trong sáng tác văn
hóa nghệ thuật và các hoạt động tinh thần.


-- nó được áp dụng ở tất cả các địa phương miền Bắc lúc ấy và Hà Nội không được coi là ngoại lệ.





     Sở dĩ một người như Nguyễn HuyTưởng không
chịu được vì nó xa lạ những nguyên tắc chi phối xã hội hiện đại mà ông tiếp nhận
được từ nền văn hóa phương Tây.






      Nhưng rồi cũng như mọi người dân Hà Nội
khác ông phải chấp nhận. 


      Từ 1960 Nguyễn Huy Tưởng đã
qua đời, nhưng nếu sống thêm ông chỉ chứng kiến sự thắng thế của những nguyên tắc
quản lý cổ lỗ, xa lạ với tinh thần hiện đại, khiến cho Hà Nội có nhiều nét trở
lại như các thành phố quê mùa thời trung đại. 


    Rõ nhất, nó đang có cái nhịp sống tận trong hồn cốt chẳng khác bao so với cái kinh thành Đông Đô hồi vua Lê chúa Trịnh
thế kỷ XVIII mà chúng ta biết được qua
Hoàng
Lê nhất thống chí
của các tác giả trong Ngô gia văn phái  Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.


Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét