Dịch thơ cổ: Nguyễn Phi Khanh 22

Bài 61

陪冰壺相公遊春江

三春媚烟景
一棹擊滄浪
習氣俱湖海
憂心只廟堂
清詩魚鳥共
佳句芷蘭香
兴盡中流返
山間日已黄
       阮飛卿

Phiên âm

Bồi Băng Hồ tướng công du xuân giang

Tam xuân mị yên cảnh
Nhất trạo kích thương lang
Tập khí câu hồ hải
Ưu tâm chỉ miếu đường
Thanh thi ngư điểu cộng
Giai cú chỉ lan hương
Hứng tận trung lưu phản
Sơn gian nhật dĩ hoàng.
         Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Theo tướng công Băng hồ đi chơi sông Xuân Giang

Tiết xuân mơn trớn cảnh khói mây
Một mái chèo khua làn sóng xanh
Khí cốt đã thành thói quen sống cùng hồ hải
Tấm lòng lo lắng chỉ ở miếu đường
Thơ thanh nhã chung cùng chim cá
Câu đẹp tỏa hương cùng hoa chỉ hoa lan
Hứng đã hết từ giữa dòng trở lại
Trên núi mặt trời đã úa vàng.

Dịch thơ
1.
Cảnh khói mây xuân thật mịn màng
Chèo khua làn nước nhẹ lâng lâng
Thói quen đều ở nơi hồ hải
Dạ thắm riêng lo việc miếu đường
Thơ nhã cá chim cùng thưởng vị
Câu hay lan chỉ nức đưa hương
Giữa dòng hứng cạn quay thuyền lại
Bóng ác non tây đã úa vàng.
               Đào Phương Bình dịch

2.
Cảnh xuân nịnh mây khói
Mái chèo khua sóng xanh
Quen sống cùng hồ hải
Chuyên lo việc triều đình
Thơ nhã cùng chim cá
Câu hay lan chỉ thơm
Giữa dòng cạn hứng nghỉ
Trên non mặt trời vàng.
         Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 62

村居

松筠三徑在
歲晚薄言歸
把酒看秋色
携筇步夕暉
雲空山月出
天闊塞鸿飛
忽聽昏鐘鼓
呼童掩竹屝
       阮飛卿

Phiên âm

Thôn cư

Tùng trúc tam kính tại
Tuế vãn bạc ngôn quy
Bả tửu khan thu sắc
Huề cùng bộ tịch huy
Vân không sơn nguyệt xuất
Thiên khoát tái hồng phi
Hốt thính hôn chung cổ
Hô đồng yểm trúc phi.
           Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Chỗ ở trong xóm

Ba luống tùng cúc còn đó
Tuổi già tính chuyện trở về
Cầm chén rượu ngắm sắc thu
Mang chiếc gậy dạo bước dưới nắng chiều
Mây quang vầng trăng ló trên núi
Trời rộng chim hồng ngoài ải tung bay
Bỗng nghe chuông tối ngân lên
Gọi trẻ khép cánh phên tre.

Dịch thơ
1.
Trúc tùng ba luống hãy còn kia
Năm muộn ừ ta trở lại quê
Ngắm thưởng sắc thu nâng rượu nhắp
Dạo chơi bóng xế chống hèo đi
Mây quang đỉnh núi vầng trăng ló
Trời rộng ải xa cánh nhạn về
Bỗng tiếng chuông chùa trong xóm giục
Gọi nhi đồng khép cửa phên tre.
                  Đào Phương bình dịch

2.
Tùng trúc còn ba luống
Tuổi già mong trở về
Nâng chén xem thu sắc
Chống gậy dạo chiều quê
Mây quang núi trăng mọc
Trời rộng nhạn bay đi
Bỗng nghe chuông tối giục
Gọi trẻ khép phên tre.
          Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 63

贈東潮范先生

人生天地一蘧廬
無奈離群久索居
今日相逢数杯酒
他時倍勝百封書
               阮飛卿

Phiên âm

Tặng Đông Triều Phạm tiên sinh

Nhân sinh thiên địa nhất cừ lư
Vô nại ly quần cửu tác cư
Kim nhật tương phùng sổ bôi tửu
Tha thời bội thắng bách phong thư.
                   Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Tặng tiên sinh họ Phạm ở Đông Triều (1)

Người ta sống trong trời đất như một nhà tạm
Không thể lìa bầy sống cô đơn một mình lâu được
Hôm nay gặp nhau hãy cạn mấy chén rượu
Còn hơn nhiều lần lúc khác nhận được hàng trăm phong thư của nhau.

Ghi chú: 1. Tiên sinh họ Phạm ở Đông Triều: chưa rõ là ai.

Dịch thơ

Sống trên đời như ngôi nhà tạm
Không thể cô đơn mãi lạc bầy
Gặp mặt hôm nay vài chén rượu
Hơn trăm thư nhận để sau này.
                 Đỗ Đình Tuân dịch


Bài 64

黄江夜雨

浦三秋雨
筠篷半夜聲
孤燈明又滅
湖海十年情
       阮飛卿

Phiên âm

Hoàng giang dạ vũ

Liễu phố tam thu vũ
Quân bồng bán dạ thanh
Cô đăng minh hựu diệt
Hồ hải thập niên tình.
         Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Mưa đêm ở Hoàng Giang  (1)

Mưa thu trên bến liễu (2)
Tiếng rơi xuống mui thuyền tre lúc nửa đêm
Ánh đèn cô đơn khi tỏ khi mờ
Nỗi lòng cảnh hồ hải mười năm qua.

Ghi chú
1.Hoàng Giang: đoạn sông Hồng ở phía bắc thành phố Nam Định. Thơ Nguyễn Phi Khanh đã từng có câu: “Trường không thu hạo Hoàng Giang nguyệt / Phương thảo xuân hồi Lục Phố phong”
2. Bến liễu: bến ra đắng

Dịch thơ
1.
Mưa thu trên bến liễu
Thánh thót rỏ mui thuyền
Đèn khi mờ khi tỏ
Hồ hải chốc mười niên
      Tiên Sơn, Huệ Chi dịch

2.
Bến rau đắng trận mưa thu
Nửa đêm rỉ rắc nghe từ phên mui
Cô đăng thoắt tối lại ngời
Mối tình hồ hải chốc mười năm qua.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 65

化城晨鍾

遠遠從僧寺
疎疎落客篷
潮生天地曉
月白又江空
       阮飛卿

Phiên âm

Hóa thành thần chung

Viễn viễn tòng tăng tự
Sơ sơ lạc khách bồng
Triều sinh thiên địa hiểu
Nguyệt bạch hựu giang không.
               Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Tiếng chuông sớm ở Hóa thành (1)

Xa xa từ ngôi chùa vọng lại
Tiếng thưa thớt lọt vào thuyền khách
Nước triều dâng lên trời đất sáng dần
Trăng sáng bạc và sông mênh mông.

Ghi chú: 1. Hóa thành chưa rõ thành nào(?). Trên Nam Phong số 146, Đinh Văn Chấp dịch là “thành Huế”, nhưng không biết căn cứ vào đâu (?).

Dịch thơ
1.
Vắng từ chùa xa tới
Tiếng thưa lọt mui bồng
Triều dâng trời đất rạng
Trăng bạc sông mênh mông.
         Tiên Sơn, Huệ Chi dịch

2.
Xa xa từ một ngôi chùa
Tiếng chuông thưa thớt vẳng đưa lại thuyền
Triều dâng trời đất rạng lên
Sông quang trăng bạc một miền mênh mông.
                                           Đỗ Đình Tuân dịch

21/4/2012
Đỗ Đình Tuân

Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét