Thạch Lam sinh 7-7-1910 mất 28--6 - 1942. Vậy đầu tháng 7 này là dịp kỷ niệm 105 năm ngày sinh của ông. Hai tiểu luận của tôi về Thạch Lam
Thạch Lam: Cốt cách một trí thức mới
Thạch Lam : Tìm vào nội tâm tìm vào cảm giác
đã in trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa, 2006
Ngoài ra, trong những năm qua tôi còn một số bài ngắn viết về con người và tác phẩm của Thạch Lam, in lẫn vào các tập chân dung và phiếm luận, nhân dịp này xin được đưa lại trên mạng, sau khi đã có sửa chữa hiệu chỉnh so với bản in trên giấy các năm trước.
VỀ VỚI CỘI NGUỒN TỪ VĂN HÓA
Hình như chỉ
ngày hôm nay, những trang viết gắn liền với đời sống thanh bình của Thạch Lam
mới hiện ra với đầy đủ ý nghĩa của nó
Một trong những đoạn văn hay nhất của Thạch Lam là
đoạn viết về cốm, in trong Hà Nội băm sáu phố phường.
…”Cơn gió mùa hè lướt qua vùng sen trên hồ nhuần
thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thứ quà thanh nhã và
tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp
đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa
non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương
vị ngàn hoa cỏ”.
Điều kỳ lạ của mấy câu văn ấy là ở cái không khí mà
chúng tạo ra, mỗi lần đọc lại, một cảm xúc thanh sạch được khơi dậy. Ta mang
máng nhận ra ở đó, có những liên tưởng tốt đẹp với nhân dân, xứ sở, đến mức, đến
mức… ta quên mất rằng, thực ra chúng được viết bằng một thứ ngữ pháp không thật
thuần Việt, sản phẩm của một người đọc nhiều sách vở Pháp và có thể nghĩ bằng
tiếng Pháp.
Nhưng rồi nhiều người vẫn đối xử với đoạn văn viết về cốm ấy với
nhiều ưu ái, thông cảm.
Ấy cũng là cái thái độ mà người ta dành cho toàn bộ sản
phẩm của Thạch Lam, bởi lẽ biết rằng ở thời của mình, đó là một ngòi bút có sự
kết hợp nhuần nhị cả tinh hoa của văn hóa Đông-Tây và luôn luôn mang lại cho sự
sáng tác một vẻ đẹp cao quý.
Từ tây sang
đông, tìm về truyền thống, tìm về dân tộc
Tuy chính thức có chân trong Tự Lực văn đoàn, nhưng sự
xuất hiện của Thạch Lam, có phần muộn mằn hơn so với mấy người cùng nhóm. Mãi
1937, Gió đầu mùa, tập truyện
ngắn đầu tay của ông mới ra đời. Với tư cách là tác giả của những Hồn
bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió, Nửa chừng xuân, bấy giờ, cả Nhất
Linh lẫn Khái Hưng đều đã tìm được chỗ đứng của mình trên văn đàn.
-- “Làm cho người
ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa”
– “Đem phương pháp khoa học áp dụng
vào văn chương Việt Nam”
– “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và
tin ở sự tiến bộ’
là những điều chính ghi trong tôn chỉ của nhóm Tự Lực.
Có
điều phải nhận trong khi thực thi công việc… mấy yếu nhân của nhóm đôi khi cũng
làm nhiều chuyện quá ồn. Đọc một vài ý kiến cực đoan xuất hiện trên Phong hóa, Ngày nay, sau cái mừng vì người mình
có thể bắt kịp thời đại, sống và cảm nhận hết những khía cạnh tốt đẹp của văn
hóa phương Tây, nhiều người đương thời thuộc loại ưu thời mẫn thế không khỏi
phấp phỏng lo ngại, không khéo cứ cái đà ấy mà kéo rồi xã hội ta đánh mất luôn
chính mình, và trở thành bản sao của nền văn hóa phương Tây, dẫu sao cũng còn
xa lạ.
Đặt vào hoàn cảnh ấy, mới thấy Thạch Lam xuất hiện như
một nối tiếp hợp lý. Ông đã kịp đến để gặt hái những gì những người đi trước
gieo cấy.
Về nhiều phương diện, ngòi bút viết nên những Gió
đầu mùa, Sợi tóc… vẫn là đi từ văn hóa phương Tây mà trưởng thành lên.
Người ta bắt gặp điều ấy qua những chi tiết làm nên tiểu sử đời ông, nền giáo
dục mà ông chịu ơn, những câu văn còn phảng phất hơi Tây mà ông sẽ viết, những
quyển sách, tờ báo đương thời từ bên Pháp gửi sang, mà ông thường nhắc tới, khi
viết các bài báo nhỏ cho tờ Ngày nay.
Nhưng sâu sắc hơn thế, Thạch Lam
vừa tiếp nhận cái sáng sủa mạch lạc rất tiêu biểu cho văn chương Pháp, vừa thấm
nhuần chất duy lý trong triết học Pháp.
Óc phê phán thường trực nơi ông, nó có
mặt cả trong sáng tác lẫn những bài viết về nghề văn, sau này tập hợp lại trong
tập Theo dòng.
Người ta thường chỉ bảo nhau Thạch Lam là một ngòi bút
tinh tế, mà quên rằng trong các tiểu luận, ông thường cũng hiện ra như một ngòi
bút có những kiến giải như tổng hợp được từ bao hiểu biết sách vở, chẳng qua vì chúng được nói lên một cách dễ đàng nên ta tưởng mọi thứ đã sẵn như vậy.
Những nhận xét của ông (đại
loại: “chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và bạc nhược”, “Những
phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào gì, đều có một tính chung: là nông nổi,
chỉ hời hợt bên ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sâu sắc”…) đối với tương
lai, vẫn có ý nghĩa một sự cảnh tỉnh.
Có điều, không chỉ so với các nhà văn thuộc Tự lực văn
đoàn, mà trong cả “dàn nhạc” tiền chiến, Thạch Lam vẫn là người có khuôn mặt
phương Đông rõ ràng và khả ái hơn cả.
Trong cái thủ thỉ thân tình của giọng
điệu, cái đạm bạc đơn sơ của đường nét, chất liệu làm nên tác phẩm, những ngụ ý
theo kiểu “ý tại ngôn ngoại” bàng bạc khắp nơi, Thạch Lam tự trình diện với một
phong thái giàu chất hàm súc, kín đáo, mà ở phía trời Tây, các nhà văn thường
ao ước.
Trên con đường tìm lại ảnh hưởng của thơ Đường, của ca dao, trong việc
bấu víu vào những chất liệu thuần Việt, kiểu như Hoa bưởi thơm rồi đêm đã
khuya (Xuân Diệu), Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp (Huy Cận),
các nhà Thơ mới thấy ở Thạch Lam một người đồng hành đáng tin cậy, mà cũng đầy
thách thức.
Với Thạch Lam, hình như lẽ sống của văn chương không gì khác hơn
những quan tâm đến cuộc sống quanh mình, những băn khoăn về bản sắc dân tộc, mà
tự mình đặt ra, rồi lại tự mình tìm cách giải đáp.
Từ Nhà mẹ Lê tới Hai
đứa trẻ, từ Gió lạnh đầu mùa qua Cô hàng xén, một mô-típ được
ông trở đi trở lại, là cái chất mòn mỏi, bình lặng ở cuộc sống đương thời.
Trong khi nắm bắt cái hồn của thực tại chung quanh, ông không quên mang lại cho
nó một chiều dày lịch sử, biết nhận ra từ đức hy sinh, vẻ tận tụy trong cuộc
sống hôm nay cái hương vị của ngàn xưa.
Rút cục thì với những người như Thạch
Lam, văn hóa Tây phương không phải là cái đích.
Từ những bậc thầy của văn hóa
Tây phương ông sớm nhận ra những cái gật đầu đồng tình, khuyến khích:
Các anh
phải giữ lấy chất phương Đông của các anh!
Các anh phải đến với chính dân tộc,
với mảnh đất dưới chân các anh!
Đó mới là công việc phải làm của người trí thức
chân chính!
Thạch Lam là một trong những ngòi bút tiên khu trong cái tiến trình
văn hóa mà sau này một ngòi bút của nhóm Thanh Nghị là Đinh Gia Trinh sẽ tổng kết:
“Cuộc phục
hưng ở xứ ta khởi đầu bằng một sự lựa chọn ôn tồn ở hai nền văn minh Á đông
truyền thống và văn minh Tây phương với nhập tịch (thời kỳ báo Nam Phong) rồi
nó đã đột ngột tới sự khinh miệt cái di sản tinh thần của nước nhà, sự ca tụng
quá đáng và thiết tha những cái gì Âu Tây mang lại (thời kỳ Phong hóa, Ngày
nay). Nay thái độ bồng bột ấy thay đổi và bọn trí thức đã trở lại tôn trọng
những di sản của đất nước, những tinh túy của văn minh Á đông, trong khi tin
tưởng càng mạnh là phải học nhiều của Tây phương để đi tới sự thành công trong
việc xây dựng một nền tư tưởng và một nền nghệ thuật Việt Nam xứng đáng”.(trong bài Địa vị văn hóa Âu Tây trong văn hóa Việt Nam , trong Thanh Nghị một số đầu 1945)
Ý niệm về kẻ khác.
Trong số vài chục thiên truyện Thạch Lam đã viết, có
một tác phẩm đứng riêng ra một góc, đó là trường hợp truyện ngắn Người đầm, ở
đấy nhà văn kể chuyên một người đàn bà Pháp vào rạp chiếu bóng để ngồi vào ghế
hạng nhì như một người Việt Nam bình thường.
Trong cái nhìn của nhân vật xưng
tôi trong truyện, người đàn bà ấy cũng buồn, cũng lặng lẽ, trầm mặc, và rất cô
đơn giữa mọi người.
Và phản ứng chi phối bà lúc ấy là cách phản ứng thường thấy
ở nhân vật Thạch Lam: cố thu mình lại, âm thầm chịu đựng, gắng gỏi làm tròn
công việc của mình, và cũng không bao giờ quên thông cảm thương xót với kẻ khác
(nỗi ái ngại chân thành mà bà dành cho
đứa bé bán kẹo, khi ra khỏi rạp).
Thông thường người ta xem Người đầm là một cái
gì lạc lõng so với mọi thứ được viết dưới tay Thạch Lam.
Bị những ám ảnh thời
sự chi phối, lại có người cho rằng đấy là một trong số ít ỏi những trường hợp
nhà văn bộc lộ lòng căm ghét thực dân và chứng tỏ vai trò chủ nhân của mình.
Song, có lẽ là hợp lý hơn, nếu đặt Người đầm vào cái mạch hòa nhập văn
hóa Đông Tây mà chúng ta đang nói.
Cuộc gặp gỡ bi thảm giữa hai dân tộc Pháp –
Việt đã dẫn đến chế độ thực dân được xác lập ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX để rồi
trở nên nguồn gốc những ác cảm khôn nguôi mà mỗi người chúng ta chôn chặt trong
lòng, khi nghĩ về người Pháp.
Nhưng bên cạnh chính trị, giữa các dân tộc còn có mối
quan hệ văn hóa, ở đó hai bên xâm nhập vào nhau và để lại những hệ lụy kỳ lạ
trong cả cộng đồng lẫn trong mỗi cá nhân.
Những điều mà giờ đây, những bộ phim
Pháp như Người tình, Điện Biên Phủ, Đông Dương đề cập tới là điều mà một
trí thức như Thạch Lam đã thấp thoáng cảm thấy.
Sự chín chắn về văn hóa (như
được phác họa trong các phần trên) đã mang lại cho ông cái nhìn chừng mực trước
mọi chuyện, và lòng dũng cảm vượt qua mọi mặc cảm cố hữu kể cả những mặc cảm
khó vượt nhất.
Đến lượt mình, sự chín chắn này lại đánh dấu một sự trưởng thành
chung của cả xã hội thời ông sống. Về phương diện triết học mà xét, người ta bảo một chủ thể
chỉ được coi là trưởng thành khi có được ý niệm chính xác về kẻ khác, và trước
tiên là thấy trong kẻ khác đó những nét tương đồng với hình ảnh phóng chiếu của
chính mình.
In lần đầu trong Những kiếp hoa dại 1993 và một lần đưa lên mạng
ở địa chỉ vuongdangbi.blogspot.com/2008/10/thch-lam_11.html
BÓNG HOÀNG LAN MÁT RƯỢI
Một trong những dấu hiệu của một tác giả
lớn là người ta luôn muốn đọc lại tác phẩm của nhà văn ấy và mỗi thời đại lại
có thể tìm thấy ở tác phẩm của ông một ý vị mới.
Không biết chữ “lớn” có hợp với Thạch Lam không
(ông vốn không thích những gì đồ sộ, to tát), song tìm ra những ý vị mới ở tác
phẩm của ông thì là điều luôn luôn có thể làm được, nếu người ta muốn.
So với các nhà văn tiền
chiến Nhất Linh và Khái Hưng, Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng và
Nguyễn Tuân thì Thạch Lam thuộc loại viết ít. Từ Gió đầu mùa (1937), Nắng
trong vườn (1938), Ngày mới (1939) qua Theo dòng (1942), Hà
Nội băm sáu phố phường(1943)... tổng cộng tất cả những gì ông viết ra đâu
chỉ khoảng một ngàn trang sách.
Tại sao lại có tình trạng ít ỏi như vậy?
Vì ông
mất sớm, khi mới 32 tuổi, ấy là một lẽ. Song lý do chính, phải nói là vì ông
thuộc loại kỹ tính. Bản thân những điều ông
thường đề cập trong tác phẩm (tính cách cố hữu đời của dan tộc, những
giá trị cao quý được tích tụ qua lịch sử, cái phần tốt dẹp không bị thời gian,
không bị cuộc đời cơ cực làm phai nhạt..) đã đòi hỏi phải được đối xử một cách
thận trọng chừng mực. Và cái giọng ôn tồn thường thấy ở Thạch Lam có lẽ lá
thích hợp nhất để diễn tả những điều một người chín chắn như ông từng ấp ủ.
Đặt vào hoàn cảnh sống hiện
thời, đôi khi người đọc hôm nay không khỏi cảm thấy văn phẩm của Thạch Lam có
một chút gì như là lạc lõng. Ông nhất quyết không chịu chia sẻ cảm giác tốc độ
mà con người hiện nay thường xuyên thể nghiệm.
Trong khi chúng ta sống trong
vội vã chụp giật, thì ông từ tốn, ý nhị.
Trong khi con người hôm nay quay cuồng
chạy theo lợi lộc trước mắt, viện đủ mọi lý do biện minh cho mình thì các nhân
vật của ông đề cao đức hy sinh, thói quen sống chừng mực, gần như khổ hạnh, và
không ngại nói đi nói lại rằng chỉ có một thứ mong manh mơ hồ, nhưng lại đáng
ngưỡng mộ, đó là vẻ đẹp.
Nay đang là thời nhiều người ngại ngùng trước mọi sự
tinh tế. Người ta bảo nhau: “Cả trong đời sống lẫn trong sáng tác, phong cách
cao quý, giọng văn thống thiết càng ngày càng bị quên lãng và thường khi bị
đồng nhất với sự tô vẽ, giả dối”.
Thật ra trong một khái quát như thế, không
phải là không có rất nhiều sự thực. Đó là đúng với nhiều người. Nhưng vẫn phải
trừ Thạch Lam. Người ta dễ nhớ đến ông, và dù không tạo ra “những đợt sóng ồ
ạt”, vẫn đọc lại ông đều đều.
Đọc để hiểu thời ông sống, cái đó chỉ là một
phần.
Song quan trọng hơn, đọc để hiểu rằng bao giờ cũng vậy, bên cạnh cuộc
sống trần trần trước mắt, con người ta phải biết nghĩ tới một cuộc sống khác.
Trong mối quan hệ từ tốn với bạn đọc, văn phẩm của Thạch Lam dường như luôn
thầm thì với chúng ta một điều gì đấy.
Lúc này, đọc sách không chỉ có nghĩa là
tìm cái giống mình trong văn chương, mà đọc sách đôi khi lại là cách tốt nhất
để tìm tới những gì mình không có hoặc hình như có, nhưng để đâu không biết,
không khéo thì đã đánh mất từ lúc nào.
Buộc người đọc phải nghĩ lại như thế,
thực không phải dễ dàng.
Song nó cũng là một việc cần thiết mà văn học phải đảm
nhiệm, nhất là khi người ta còn muốn tìm tới cái cơ may mà mọi người cầm bút
thường vẫn ao ước, là tạo ra sự trường tồn cho trang viết.
In lần đầu trong Chuyện cũ văn chương 2001
0 nhận xét:
Đăng nhận xét