Lời dẫn Sống Hà Nội hôm nay nhớ Hà Nội hôm qua
Tôi
còn nhớ -- không biết có chính xác?-- đâu khoảng giữa 2012, Phong Điệp, một bạn trẻ viết văn và chủ nhân trang mạng
cùng tên, có viết trên đó một bài viết mà nội dung có cái ý tự hỏi :
– ai cũng thấy Hà Nội hôm nay nhếch nhác thật,
-- nhưng
có phải là xưa nay Hà Nội vẫn thế, cái câu Hà Nội thanh lịch chỉ là nỗi ước ao
mà bao thế hệ mong mỏi nhưng không đến được?
Đọc bài viết khi ấy trong tôi đã thầm có một câu trả lời:
-- Trong bàn tay quản lý của các vị tướng nhà
binh là các chúa Trịnh, Hà Nội thế kỷ
XVII- XVIII chỉ là một đô thị trung cổ, cách ăn nếp ở sinh hoạt của con người
luộm thuộm nhếch nhác không ai có thể bào chữa.
Rồi đến thế kỷ XIX, Hà Nội lại mất vị trí thủ đô
vào tay Huế thì sự hoang tàn càng rõ.
Đọc những cuốn sách như Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ ta đã thấy vậy. Nhưng đến các tài liệu của các lái buôn và tu sĩ
phương Tây thì càng rõ. Bởi nhiều khi đó là những tài liệu quá thực nên từ sau 1945 đến nay
chúng bị giấu kín không ai được dịch từ các thầy giáo tới các học sinh không ai
được biết. Chính tôi không biết các cuốn sách ấy, mãi tới
dịp kỷ niệm ngàn năm Thăng Long 2010 mới biết. Tôi đã có lần tìm đọc một số tư liệu loại đó như bản dịch cuốn Lịch sử tự nhiên
dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài Jerome Richard --
Paris 1778 và ghi lại một bản tóm tắt đưa trên blog của tôi ngày 22 Tháng giêng 2015
-- Nhưng sang thế kỷ XX, thì Hà Nội trong cái thời
mà ngày nay chúng ta cứ muốn quên đi là thời Pháp thuộc, Hà Nội lại trở nên một đô thị hiện đại, khách khứa từ
các phương trời khác nhau ghé qua đều yêu mến và thấy rằng nó đã chín trong cái chuẩn mực của nó.
Tôi không biết tiếng Pháp để tìm đọc các cuốn sách viết về Hà Nội của người Pháp. Ở ta khoa nghiên cứu và mô tả đô thị lại chưa xuất hiện.
May mà các tác phẩm văn học đã phần nào lấp được chỗ trống.
Cho đến nay nói về Nguyễn Tuân trước 1945, người ta chỉ nói tới Vang bóng một thời và Chùa đàn. Nhưng theo tôi tập tiểu thuyết Thiếu quê hương (1943) và hai tập Tùy bút I (1941) & Tùy bút II (1943) trình ra một phương diện rất đáng kính trọng của ông Nguyễn. Ở đó ông mô tả một Hà Nội trí thức thượng lưu, một Hà Nội tinh hoa vừa đàng điếm vừa cao quý.
Cùng với Nguyễn Tuân, tôi muốn kể ngay bằng chứng là cuốn Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam in lần đầu từ 1942 và sau này thì tôi cũng rất thích Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng viết trên bán nguyệt san Văn ra ở Sài Gòn 1969 và nay thì đã in đi in lại nhiều lần.
--
Trở lại câu hỏi của bạn Phong Điệp nêu ở trên, tôi cho rằng chúng ta phải phân
biệt Hà Nội về mặt thời gian. Bạn đã đúng khi nói về Hà Nội trong các thời kỳ do
người mình tự quản lý lấy và đã sai khi bỏ qua giai đoạn Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX.
Theo dự đoán của tôi, Hà Nội băm sáu phố phường là cuốn sách viết về Hà Nội được đọc nhiều nhất. Vì nó nói về một Hà Nội mà hôm nay chỉ còn vang bóng, mà cũng vì mỏng dễ kiếm dễ đọc, nó được viết một cách tự nhiên nên người ta có thể sẵn sàng mua về rồi đọc đi đọc lại. Sau nữa cũng nên tính tới một yếu tố này. Hà Nội trong tác phẩm của Thạch Lam có cái gì đó gần gũi với mọi người, tác giả yêu Hà Nội song lại không có lối mỹ lệ hóa, nó không viết về nó với những lời bốc đồng giả tạo, như con người thời nay hay viết.
Hai bài viết dưới đây của tôi về Thạch Lam thuộc hai thể khác nhau. Bài thứ nhất là một thứ sưu tầm bổ sung cho những gì Thạch Lam đã viết về Hà Nội trên Ngày nay mà chưa đưa vào Hà Nội băm sáu phố phường. Bài sau là một đoạn trong cuốn Một số nhà văn Việt nam hôm nay và Hà Nội in 1986.
Thêm những tài liệu về HÀ NỘI BĂM SÁU PHỐ PHƯỜNG
Đến nay, Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam đã in lại
đến bao nhiêu lần, không ai được biết. Lối làm xuất bản luộm thuộm của chúng ta
là nguyên do của thiếu sót đáng tiếc đó. Tuy nhiên có điều chắc là hễ nhắc đến
Thạch Lam thì cùng với nhiều truyện ngắn như Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Sợi
tóc... cùng tập tiểu luận Theo
dòng, người ta phải nhắc ngay tới Hà Nội băm sáu phố phường.
Dưới đây, để giúp bạn đọc hiểu thêm tác phẩm này, chúng tôi xin
lưu ý một số chi tiết có liên quan đến văn bản và tác giả.
1. Trước khi được in thành sách, Hà Nội băm sáu phố phường
đã được in trên báo, như một mục thường xuyên của tờ Ngày Nay (bài đầu
tiên, in trong số 201 năm 1940).
2. Nhưng ban đầu, mục này không phải chỉ riêng có Thạch Lam viết,
mà còn có sự đóng góp của các đồng nghiệp. Ngay số mở đầu nói trên, đoạn từ "Người
Pháp có Paris,người Anh có London...” ký tên Thạch Lam, nhưng đoạn Những
biển hàng (“Đã có nhiều người nhận ra rằng phố Hàng Đào là phố của loài
vật”) lại ký Thiện Sĩ.
Ở đây, có thể có giả thiết Thiện Sĩ chính là một
biệt hiệu khác của Thạch Lam, và đó là lý do sau này những đoạn Những biển
hàng đó cũng được đưa vào Hà Nội băm sáu phố phường.
Nhưng cũng xin lưu ý, hai chữ Thiện Sĩ còn xuất hiện trên Ngày nay trong nhiều trường hợp khác. Lại có cả một cuốn Sách Hồng (viết
cho thiếu nhi) của nhà Đời nay, mang tên Lên chùa, cũng ký tên
Thiện Sĩ và chúng tôi không dám cả quyết là những bài này, hoặc cuốn sách này,
bao giờ cũng có hơi hướng văn Thạch Lam; đôi khi có phảng phất giọng văn Khái
Hưng.
Vậy chưa thể cả quyết dứt khoát Những biển hàng do Thạch
Lam viết. Xin coi đây là một nghi án, tạm xếp đấy đã.
3. Đến số 203 của năm 1940, thì xảy ra một tình huống rõ ràng hơn.
Số này mục Hà Nội băm sáu phố phường nói riêng về các vườn hoa Hà Nội. Đoạn này
ký tên Khái Hưng và cố nhiên, sau này không thấy có mặt trong Hà Nội băm sáu
phố phường.
4. Về phần mình, không phải bao nhiêu bài Thạch Lam
viết về Hà Nội, đều đưa vào Hà Nội băm sáu phố phường. Theo dõi Ngày
Nay từ 1937 trở đi, chúng tôi còn gặp một vài bài ngắn, Thạch Lam đả động
tới chủ đề này (xem phụ lục đi kèm). Hoặc ngay trong năm 1940, có lần trong mục
Chuyện xa gần, cũng thấy xuất hiện những đoạn văn ngắn về Hà Nội ký tên
Thiện Sĩ (là của Khái Hưng hay Thạch Lam, chưa xác định).
Đến đây chúng ta có lý do để tiếc rằng Hà Nội băm sáu phố phường
là cuốn sách hình thành sau khi tác giả đã qua đời. Nếu nó được chính Thạch Lam
chuẩn bị cho in, hẳn đã có khác chút ít. Biết đâu Thạch Lam chẳng bổ sung thêm
bài này bài nọ.
5. Người có công lớn trong việc tổ chức nên bản thảo Hà Nội băm
sáu phố phường là Khái Hưng.
Chúng tôi hình dung đóng góp của tác giả Nửa
chừng xuân cho cuốn sách này của Thạch Lam trải ra trên hai phương diện: một
là bàn bạc với Thạch Lam về từng bài
cụ thể, đôi khi có thể có sửa chữa thêm bớt, hai là khuyến khích Thạch
Lam theo đuổi đề tài này đến cùng.
Lưu ý là trong bản in lần đầu của Hà Nội
băm sáu phố phường ở nhà xuất bản Đời nay, có kèm thêm lời Tựa mà
Khái Hưng viết cho tập sách, đề ngày 20-VII-1943 .
Đọc lời tựa này, người ta đọc ra không chỉ tình yêu của Thạch Lam mà cả tình yêu của
Khái Hưng với Hà Nội, và điểm lại hình ảnh Hà Nội trong sáng tác của các nhà
thơ cổ điển, vốn là một mặt mạnh của ngòi bút Khái Hưng (lâu nay, không thấy
các bản Hà Nội băm sáu phố phường có in lời tựa này).
Có điều lối đơn giản hoá công
việc, tước đi khỏi tác phẩm những cái tưởng như râu ria vô bổ song thực ra rất
có giá trị, là lối làm việc phổ biến, người ta đã làm với nhiều cuốn sách khác,
chứ không riêng gì Hà Nội băm sáu phố phường.
Sau đây là một số đoạn Hà Nội băm sáu phố phường có trên Ngày nay mà không đưa vào sách
CHUNG
QUANH HỒ.
Cốc “kem năm”
Một năm trước chung quanh Bờ Hồ chúng ta còn thấy bầy các hàng
nước chanh, nước đá. Những tấm vải che đã cũ, những bàn ghế long đinh, cái nụ
cười và tiếng mời chào của các cô hàng.
Một vẻ đẹp và một cái thú riêng của Hà Nội.
Nhưng ở những căn hàng ấy còn có một cái lợi nữa: một người có năm
xu cũng có thẻ ngồi hưởng gió mát và ngắm cảnh được. Thực là một cái thú rẻ
tiền, ai cũng muốn hưởng.
Nhưng bây giờ thành phố đã bắt những hàng ấy phải triệt đi và
cho làm thay vào cái nhà thuỷ tạ lộng
lẫy để dành riêng cho những người... lắm của. Còn bọn ít tiền, các công chức,
thợ thuyền, bây giờ chỉ còn cách đứng ngoài mà nhìn. ở trong thuỷ tạ, người ta
bán đắt quá: bảy hào một cốc rượu, hai mươi nhăm xu một cốc nước chanh.
Thành phố đáng lẽ phải làm cho người nghèo được hưởng lợi, thì lại
chỉ nghĩ đến cách tiêu khiển cho kẻ giàu. (Mà người giàu thì đã thiếu gì cách
tiêu khiển). Nếu nhà thuỷ tạ nộp môn bài, thì những hàng nước chanh nước đá
trước kia cũng nộp môn bài.
Nhưng câu chuyện không phải ở chỗ ấy, vì thành phố có phải là một
nhà buôn kiếm lợi đâu.
Chỉ còn cách là nhà thuỷ tạ bán hạ giá. Nhưng nếu bán thế, người
thầu lại sợ lỗ vốn. Chi bằng bây giờ phá quách cái nhà ấy đi, và thành phố lại
cho các hàng bán như trước. Có thế, dân nghèo ở Hà Nội mới được ngồi hưởng cái
gió mát chung của hồ.
Liễu rủ bên hồ
Trong vòng hai năm nay, người ra mới thấy chung quanh hồ bắt đầu
trồng liễu. Bây giờ những cây liễu đã nhớn, buông tơ rủ xuốn mặt nước rất đẹp.
Thành phố đã làm một việc tốt để tăng thêm vẻ đẹp của hồ Hoàn Kiếm.
Nhưng sao trước kia không ai nghĩ đến trồng liễu? Chỉ thấy trồng
những cây hoa thấp lè tè, và những cây gồi cao lênh thênh.
Tôi hiểu tại sao người Pháp lại thích cây gồi: vì cây đó gợi trong
trí họ cái cảnh rực rỡ ánh sáng ở Phi Châu, hay ở ven biển Méditerrannée (Côte
d’azur); mà người Pháp ở xứ lạnh thì ao ước ánh sáng mặt trời
lắm.
Nhưng đối với người ta, cây gồi chỉ gợi đến cái cảnh nóng bức khó
chịu của mùa hạ. Vả lại, nó không có bóng mát. Khí hậu bên ra chỉ cần một cái
vườn râm mắt như vườn kiểu Anh thôi. Còn những thảm hoa kiểu Pháp, phải ở nơi
thời tiết đầm ấm mới thích hợp.
Lễ phép không ngại gì
Một vài người cảnh sát của
thành phố - cố nhiên không phải là tất cả - không có lễ phép trong khi
làm phận sự mình. Họ chỉ quen mắng, quát người ta mà thôi.
Buổi chiều, dân thành phố ra Bờ Hồ hóng mát rất đông. Có hai vợ
chồng người thợ vô ý ngồi lên bãi cỏ. Một thầy cảnh sát đến. Thấy người ta ngồi
vào bãi cỏ cấm, đáng lẽ người cảnh sát ôn tồn bảo cho người ta biết thì phải.
Đằng này không, người cảnh sát đến đằng sau hai người kia, nói một câu thô tục:
- Này, ngồi thế đã mát... chưa?
Thái độ lạ
Hôm gánh hát Phước Cương diễn ở Nhà Hát tây cũng có nhiều cảnh sát
giữ trật tự. Nhưng xe cộ phải đi đến Hát Tây theo một đường.
Anh phu xe kéo tôi ngu đần quá, không biết lệ luật. Anh ta, cứ kéo
ngay vào lối các xe đi ra. Có một thầy cảnh sát đứng đấy. Nhưng đáng lẽ bảo
ngay cho anh phu xe biết, thầy lại đợi cho anh xe kéo vào quá xa, rồi mới quát:
- Ứ ừ, mù! Đi thế kia à?
Tôi vẫn biết không phải tất cả những người giữ trật tự trong thành
phố đều như thế cả. Tôi cũng biết rằng nhiều người mình nói ngọt không chịu
nghe, chỉ ưa mắng.
Nhưng đó không phải là một lẽ để người ta bỏ quách lịch sự. Sự lễ
phép chỉ tôn người ta lên mà thôi, không làm mất giá trị người ta bao giờ cả.
Vấn đề nhà ở
Kỳ hội đồng thành phố vừa rồi, các ông đại biểu dân đã bàn định
lập ra những nhà để cho các viên chức thuê. Số tiền thuê mỗi tháng từ 15 đến 18
đồng; mỗi cái nhà làm mất ít ra là 5.000đ.
Như vậy, chỉ các viên chức nào lương khá mới hòng thuê được mà
thôi. Còn các viên chức lương nhỏ - số rất ít - và các thợ
thuyền trong thành phố vẫn phải chui rúc vào những căn nhà tối tăm và bẩn thỉu
như hang chuột.
Ở bên Pháp vừa rồi, người ta mới dặt ra một tuần lễ gọi là “tuần
lễ xã giao” hay “tuần lễ lễ phép” (semaine d’ubanité).
Trong tuần lễ ấy mọi người phải theo đúng cách lịch sự, lễ phép trong bất cứ
trường hợp nào và bất cứ ở đâu.
Người mình chưa mấy ai biết phép xã giao, giá có một tuần lễ như
thế cũng hay. Nhưng tôi tưởng một tuần lễ không đủ, phải đặt ra “một
năm xã giao” mới đủ.
Thạch Lam
Ngày Nay, số 65 ra ngày 27/6/1937.
THẠCH
LAM VÀ HÀ NỘI
Trong số những phố phường cũ ở Hà Nội, phố Hàng Bạc thật có duyên với văn học: Nguyễn Tuân, Thạch Lam đều sinh ở đấy; Vũ Trọng Phụng đã sống ở đấy nhiều năm.
Trong văn chương, không tả cụ thể Hàng Bạc nhưng như sau đây chúng ta sẽ thấy, ông thường tả rất kỹ khu trung tâm thành phố, chung quanh hồ Hoàn Kiếm.
Vũ Trọng Phụng cũng thường nhắc tới trong các phóng sự tiểu thuyết của mình cảnh ăn chơi của những Tạ Hiền, Sầm Công, Hàng Buồm cách Hàng Bạc không xa.
Riêng Thạch Lam có khác. Thuở nhỏ, ông theo gia đình về ở mãi cái huyện xa vùng Hải Dương (Cẩm Giàng) và Thái Bình (Tân Đệ), sau mới về học ở Hà Nội và ra làm báo.
Lúc này, gia đình ông khi thì ở Hàng Bún, khi lên Yên Phụ.
Có điều trong văn Thạch Lam,
khu vực từ Đồng Xuân tới Bờ Hồ vẫn rất quen thuộc; nhân vật Hiệp trong Cô áo lụa hồng (tập Gió
đầu mùa) từng mũ đội lệch, miệng ngậm thuốc lá” đi dạo đủ các phố Hàng Ngang, Hàng Đường, Chợ Đồng Xuân, Hàng Lược...” .
Và quan trọng nhất là cái cốt cách ta cảm thấy trong văn Thạch Lam. Đó là một giọng văn bình dị mà lại tinh tế, như người Hà Nội từng trải thanh lịch, tiếng nói Hà Nội dẽ dàng, sang
trọng.
Theo Thanh Tịnh kể lại, thì bề ngoài Thạch Lam dáng cao
cao, thân hình mảnh khảnh, ăn nói điềm đạm, mới gặp người ta dễ lầm là một nhà giáo hơn là một nhà văn. Đọc văn ông, chúng ta đoán ông sống thanh đạm, chăm lo nhiều tới cuộc sống nội tâm, không bị cuốn theo ngoại cảnh ồn ào. Ông tôn trọng mọi người, sợ làm phiền người khác, nhưng lại giữ được sự độc lập trong đầu óc và không phải là không phóng túng trong nếp nghĩ.
Chắc chắn là ông không sống hùa theo mọi người.
Chả thế mà viết văn giữa Hà Nội, bạn bè với nhiều đồng nghiệp trưởng giả, ông vẫn dửng dưng với mọi tiện nghi vật chất, và chỉ tìm thấy niềm vui trong một mái nhà tranh trông ra Hồ Tây ở Yên Phụ (làng Yên Phụ có con đường lát gạch và hồ Ao Vả, chứ không phải đường phố Yên Phụ!). Ông sống như thế cho đến những ngày cuối cùng trong đời. Theo nhiều tài liệu cho biết, ông chết vì bệnh lao, khi mới hơn 30 tuổi. Nhưng đọc văn ông cũng như xem cách sống của ông, thấy ở Thạch Lam tất cả đều đã đến giai đoạn chín, ổn định.
Trong một thiên truyện mang tên Phê-ra-guýt,
thủ lĩnh của đám phàm ăn, O. de
Balzac từng nêu một nhận xét,
"Ở Paris có những đường phố đáng xấu hổ như một con người phải xấu hổ khi làm điều đê tiện. Ở đó, cũng có những phố cao thượng, những phố quả thực lương thiện, những phố trẻ trung mà công chúng chưa kịp có ý kiến về đức hạnh của chúng: tiếp đó, có những đường phố hung bạo... những đường phố đáng kính, những phố luôn luôn bẩn và những phố lúc nào cũng sạch, những phố lao động làm ăn buôn bán. Tóm lại, những đường phố ở Pa-ri có những tính chất của con người và vẻ ngoài của chúng gợi cho ta những ý nghĩ nhất định mà ta không cách gì cưỡng lại được”.
Ý nhà văn Pháp ở đây muốn nhấn mạnh khuôn mặt các thành phố thường đa dạng. Paris
là vậy, Hà Nội của chúng ta là vậy, và Hà Nội được phản ánh trong các tác phẩm văn học cũng vậy.
Qua văn Nguyễn Công Hoan,
chúng ta đã bắt gặp một số mẫu người kẻ chợ, láu, học đòi, bạc bẽo, bất nhẫn, qua văn Vũ Trọng Phụng, ta biết thêm một Hà Nội của xã hội thực dân phong kiến với những mưu đồ xoay xoả, những vụ bịp lớn, một con đường lưu manh hoá sẵn sàng mở ra với mọi thanh niên.
Nhưng Hà Nội đâu phải chỉ có thế? Mãi mãi vẫn còn một Hà Nội nhạy cảm tế nhị, giàu lòng thương xót người khác, một Hà Nội rất tử tế, sang trọng nếu có thể nói như vậy.
Như ở tác phẩm Thạch Lam chúng ta đang xét. Qua Một cơn giận, nhân vật xưng tội tự kể về một tình thế trớ trêu: do bực mình, nóng nảy, lạnh lùng,
v.v... tóm lại trong một trạng thái tâm lý không bình thường, anh đã vô tình đẩy người khác (ở đây là một phu xe nghèo khổ vào bước đường bất hạnh. Nhưng sự tỉnh táo đến rất nhanh, kèm theo là sự xót xa ân hận, và những hành động cụ thể, để sửa chữa, vớt vát lại tình thế, khiến người đọc truyện không khỏi cảm động.
Qua Một cơn giận, ta cảm thấy tác giả có cách nhìn
vào đời sống khá thấu đáo, lại biết thông cảm với mọi lầm lẫn ở mình và xung quanh. Con người Hà Nội, con người thành thị ở đây có những nét đáng yêu, đáng vì nể chứ không chỉ thuần có lạnh lùng, vô trách nhiệm, như người nọ, người kia vẫn mô tả.
Nét đặc biệt của Hà Nội thời Thạch Lam trở về trước: thành phố luôn luôn gắn bó với các vùng nông thôn xung
quanh, nhiều người lên đây làm thợ, buôn bán, đi học, thậm chí làm quan, đã sống hàng đời ở Hà Nội rồi, vẫn không khỏi thoáng qua một chút run rẩy khi nhớ về quê cũ.
Một trong những mô-tip thấy trở đi trở lại vài lần trong
truyện ngắn Thạch Lam: một người thành phố về thăm quê hương của mình.
Trong Trở về là thế, trong Dưới bóng hoàng lan là
thế. Rồi Những ngày mới lại càng kỹ hơn, tỉ mỉ hơn.
Trừ trường hợp nhân vật Tâm trong Trở về thấy chán ngán, ngại ngùng (anh
ta gần như bỏ chạy khỏi nông thôn), còn trong hai truyện kia, nhân vật chính đều rất thiết tha với quê hương. Họ tìm thấy ở đấy những gì tượng trưng cho sự trong sạch, sự bền chắc trong tình cảm.
Nói như ngày nay chúng ta thường nói, trở về với làng quê, đối với một số nhân vật trong
Thạch Lam, là trở về với cội nguồn của đời sống, ở đó, ta tiếp nhận được đời sống ở cái phần chân chất nhất, trong
lành nhất của nó.
Đấy cũng là điều Thạch Lam muốn nhắc nhở chúng ta
trong trong tập Hà Nội ba mươi sáu phố phường cũng như trong hàng loạt truyện ngắn khác.
Sở dĩ so với nhiều nhà văn khác, Thạch Lam giữ được cái phần mức độ trong việc miêu tả Hà Nội, nhất là khi ông xem xét mối quan hệ giữa quá khứ và tương lai của thành phố, lý do chính vì ông có cái nhìn của một con người hiểu biết về lịch sử hình thành các đô thị hiện đại. Những độc đáo riêng của đô thị ở VN hay bị chúng ta cường điệu thật ra cũng không ra ngoài các quy luật của văn hóa đô thị trên thế giới.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét