Thạch Lam & những cái tết thanh đạm






     Sự
tiết chế, sự điềm đạm vốn là một đặc điểm thấy rõ ở văn chương cũng như con người
Thạch Lam (1910-1942).


    
Biết điều đó, người ta sẽ không ngạc nhiên, khi nghe ông kể rằng ông thường đón
Tết một cách không mấy vồ vập, đúng hơn là đơn sơ thanh đạm.“Tết của nhà nghệ sĩ vốn giản dị… một
chai rượu mùi, một gói kẹo, một gói thuốc lá, thế là đủ. Chẳng phải vì nghệ sĩ
không ước ao hơn, nhưng vì nghệ sĩ vốn nghèo”.






   Có điều,
trong khi đứng tách riêng ra không chịu đua đả với mọi người về những tiện nghi
vật chất, thì nhà văn ấy lại vẫn mở rộng lòng đón Tết, và cũng đủ hồi hộp rung
động trước cảnh xuân sang.


    Qua văn ông, người ta đọc ra những cảm giác thiêng liêng mà có lẽ người Việt
nào cũng trải qua, cái thiêng liêng nảy sinh trước tiên do bắt gặp những vận động
tự nhiên của trời đất, nhưng lại càng thiêng liêng vì được cùng với người thân
sống lại những phong tục tập quán đã được cộng đồng dân tộc hình thành qua ngàn
năm lịch sử.





Những chiếc bánh chưng


hay là nét đẹp của phong tục


    Những ai từng đọc 
Nội băm sáu phố phường hẳn
nhớ những tinh tế của ngòi bút nhà văn trong việc ghi lại các món ẩm thực hình
thành của người dân thường Hà Nội. Trong khi quan sát mọi người chuẩn bị đón Tết,
Thạch Lam cũng không quên nhắc lại những phong tục có tự ngàn đời, như việc gói
bánh chưng chẳng hạn.


     
“Ồ, chiếc bánh chưng vuông
vắn và đầy đặn, màu xanh như mạ non, gạo nhiễn ra như bông tuyết và giữ trong
lòng bao nhiêu quý báu của miếng ngon: lượt đậu mịn và vàng đậm, những miếng mỡ
trong như hổ phách, những miếng nạc mềm lấm tấm hạt tiêu. Và thoang thoảng một
một chút mùi cà cuống, gắt như cô gái chua, sắc như mũi kim lạnh ”.


     Trong những đoạn văn như thế, người ta
không chỉ thấy sự thành thạo trong chuyện ăn uống, mà còn bắt gặp sự nhạy cảm
riêng của tác giả trước cái quan niệm hàm chứa đằng sau các món ăn: Với người
Hà Nội thanh lịch, mọi chuyện không được phép qua loa lấy lệ, hoặc xô bồ tuỳ tiện
thế nào cũng được, mà phải kỹ lưỡng thận trọng, tuân theo những luật lệ nghiêm
khắc và chắc chắn, bao giờ cũng gửi vào đấy một ý niệm về vẻ đẹp.


     Từ đấy, toát ra cái tinh thần của một nền
văn hoá độc đáo mà theo tác giả, nếu không bảo nhau giữ gìn, ta sẽ đánh mất.



Phố xá với những sắc
màu đa dạng


    
Sau khi tự nhận rằng chỉ chuẩn bị cho Tết ở mức tối thiểu, Thạch Lam kể:


     Thế rồi hai tay bỏ trong túi áo - và cầu trời cho thời tiết hơi rét và
hơi mưa bụi, tôi lẫn trong đám đông xuôi ngược trên hai bên hè phố
”.



     Nói cách khác, niềm vui của ông là được đi
ngắm cảnh thiên hạ đón Tết. Trong tầm nhìn của ông, có cây cảnh phố xá, lại có
đủ loại mặt người. Trầm lặng và như muốn lẫn đi giữa chung quanh, song con người
ông vẫn có sức bao dung rất lớn.


   Qua những truyện ngắn như 
hàng xén, ta biết rằng Thạch Lam rất hay nói tới sự nhẫn nại, sự hy
sinh. Thì ngay khi đi trên đường phố nhộn nhịp, ông cũng không quên điều đó.


    “Các thiếu nữ trong ngày sắm Tết có rất
nhiều vẻ đáng yêu. Đi đâu mà vội vàng thế? Về chậm sợ mẹ mắng hay sao? áo quần
không kịp trang điểm, mái tóc không kịp vuốt ve, cho nên có một vẻ lơ đễnh, một
vẻ xuềnh xoàng khả ái! Giờ này là giờ các cô đảm đang, đi mua đi bán, đem cái
vui vẻ cho em trai và mẹ già, các cô hết lòng lắm. Chen lấn vào đàm đông, không
sợ bị chèn ép xô đẩy. Đi guốc cao cho khỏi lấm gấu quần. Và nhất là tự nhiên và
dung dị”.


     Với tư cách tác giả Nhà
mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa, Thạch
Lam dành ít dòng để nói về Tết của người nghèo:


    “…ở ngoài bãi sông, Tết lại có một vẻ
riêng đặc biệt. Trông đứa bé đội mũ bông, áo mới dài và rộng, đeo chiếc khánh mạ
vàng, nhặt ngòi pháo đốt, thấy cả cái Tết ái ngại và nho nhỏ của cả một vùng”.


     Và đây nữa, một nét Tết
Hà Nội, dưới con mắt Thạch Lam:


     “Đêm 29 Tết, vào giờ trước giao thừa…
có ai lên trước chợ Đồng Xuân, để nhìn những cái gì còn lại, những cái gì bị
khinh bỉ từ chiều? Những cành đào xấu xí, ít hoa; những bát thuỷ tiên tơi tả,
đã chuyền tay hết người này sang người khác mà không được ai mua, những chậu
cây cúc và thược dược rã rời và lấm đất. Dưới mưa bụi, bùn đã vấy lên trên những
cành đào, mai rải rác trên đường, bao nhiêu bàn chân dày xéo (…). Để trang điểm
cho những căn buồng tiều tuỵ, những căn nhà lá nghèo nàn ở các ngoại ô đối với
nhiều người, tuy xấu xí tơi tả mặc dầu, những thứ ấy cũng vẫn là biểu hiện của
ước mong, của trông đợi”.




Một nét thần thái

    Rồi bao nhiêu chuẩn bị đã xong, điều mọi người
háo hức chờ đợi  -- mùng một, mùng hai,
những ngày Tết thực thụ -- đã tới với bức tranh thiên nhiên thoảng qua một chút
xao động lẫn những cảnh tượng sinh hoạt như ngàn đời vẫn vậy. Thạch Lam không
nói gì khác những điều ai cũng biết, ấy vậy mà đọc ít dòng ghi chép của ông,
người ta vẫn cảm thấy như tất cả vừa được nhận ra lần đầu.


    “Qua bãi cát rộng, con sông ngày Tết từ
từ trôi mấy bông hoa nát không biết ở đâu về. Đây Tết rải rải khắp ven bờ. Một
cái bến vài con thuyền đỗ, thế là cũng có khói hương cũng có hoa đào và xác
pháo (…)


    Ngoài trời lại mưa bụi.
Xuân có vẻ đè nén, bao bọc và dằng dai:


Ngõ trúc lùn tùn tun ngọn trúc

Mưa xuân lún phún lụn ngày xuân.

    Không hiểu tại sao hai
câu thơ không nhớ của ai ấy thật đúng cái cảm giác tôi có lúc mùa xuân
”.

    Câu chuyện về những ngày Tết dưới con mắt Thạch
Lam tới đây đã có thể dừng lại. Song có một điều người đọc không khỏi vương vấn:


    
Hình như nhân nói về một ngày lễ cổ truyền, Thạch Lam vừa động chạm tới một cái
gì lớn hơn thuộc về thần thái của sinh hoạt cộng đồng, nghĩa là những yếu tố
trường tồn trong thời gian. Và ai cũng muốn thử cắt
nghĩa tại sao đến nay nhiều người còn rất thích văn Thạch Lam, có lẽ phần nào tìm được câu giải đáp.


      Lớn
lên trong cảnh đất nước bị thực dân thống trị, song lại tiếp nhận được một cách
nhuần nhị nền văn hoá Pháp, Thạch Lam (cũng như nhiều đồng nghiệp đương thời)
đã biết hướng toàn bộ tâm tình vào việc yêu mến, tìm hiểu, khám phá cốt cách
dân tộc. Mà cái cách trở về với dân tộc của Thạch Lam thì chân thành và cảm động.
Ở đây mọi tình cảm không ồn ào song lại rất thấm thía, càng hiểu cái nghèo túng
chật vật của hoàn cảnh người ta cảm thấy nặng lòng với đất nước đã nuôi nấng
mình lớn lên. Đó là cách nhìn, là tấm lòng của những trí thức chân chính.





 Đã in trong Chuyện cũ văn chương dưới nhan đề


Những ngày tết dưới con mắt một người Hà Nội lịch lãm





Một bài báo Tết của Thạch Lam





                                        Nghệ thuật ăn Tết





Hưởng, đấy là khôn ngoan; khiến hưởng, đấy là đức hạnh


(Cách ngôn Ảrập)


     Ngày Tết, đối với nhiều người, chỉ có thú
vị khi nào nghĩ lại
 - Người
ta thường hay cùng nhau nhắc tới những Tết năm ngoái, năm xưa với một vẻ mến tiếc
âu yếm, lẫn với đôi chút ngậm ngùi. Nhất những Tết ngày còn nhỏ… Lúc ấy, cùng với
những nỗi vui ngày Tết đã qua, còn vướng niềm thương tiếc tuổi niên hoa, cái tuổi
mà người ta nhận là “vô tư lự”, ngây
thơ và sung sướng.


     Nhưng nỗi nhớ tiếc ấy
chẳng ích lợi gì, mà lại ngăn chúng ta không toàn hưởng được thời khắc hiện giờ.
Đậm đà, mạnh mẽ hơn bao nhiêu là sự hưởng thụ ngay hiện tại, thêm vào cái thú
hưởng những giờ vui, cái thú vô song của sự mình biết mình đương hưởng.


    Ngày còn ít tuổi, tôi
không hiểu biết được cái thú uống trà. Chén trà thơm lúc đó như sao bằng được
những mộng đẹp tôi đang mơ tưởng trong lòng. Bây giờ tôi đã có biết rồi
 - và thỉnh thoảng một buổi sớm hay trưa, nâng
chén trà lên để nhìn qua hương khói. Hưởng hương vị chén trà thì ít, nhưng hưởng
cái thú ở đời, và nhất là hưởng cái giờ khắc nghỉ ngơi, nhàn nhã, mà tự mình
cho phép - (người
ta chỉ có thể hưởng được cái khoái lạc của nghỉ ngơi, khi biết cái nghệ thuật
nghỉ ngơi cũng như biết cái nghệ thuật làm việc).


     Tôi hiểu là vô ích và
điên dại cuộc theo đuổi mộng ảo không cùng, việc lần để ngày lại ngày hạnh
phúc. Tôi hiểu rằng hoa nở sớm nay cũng tươi đẹp chẳng kém hoa nở ngày mai, thời
tiết xuân nay êm dịp hơn xuân bao giờ hết, và trời trong cùng ánh nắng kia hiện
giờ đã đẹp vô ngần…


     Tết! Còn dịp nào
trong đời ta nhiều thú vị vui tươi hơn nữa. Ngày Tết nhắc ta nhớ lại những Tết
đã qua, và khuyên ta an hưởng ngay cái Tết bây giờ. Đêm giao thừa
 “thời
gian qua nghỉ bước trên từng cao” là giờ khắc say sưa êm dịu nhất. Hưởng mùi
thơm thuỷ tiên, cánh hồng hoa đào nở, hưởng làn khói trầm vấn vít đủ lên cao.
Hưởng đi, trong cái khoái lạc của sáng suốt, trong cái minh mẫn của tinh thần,
trong sự thư thái thảnh thơi của lòng bình tĩnh. Tiếc thương như gia vị và mong
mỏi như làm ấm nóng cái thú vô cùng.


     Rượu sánh trong cốc
pha lê trong trộn mùi khói pháo với hương thuỷ tiên. Tiếng pháo nổ vui từ nhà nọ
sang nhà kia, liên tiếp, đi mãi vào trong đêm để làm vang động bầu không khí
xuân của khắp cả các gia đình. Đó là tiếng hiệu lệnh của sự thông đồng chung hưởng.


     Lúc đó mỗi nhà đều uống
rượu thưởng năm mới. Rồi chiếc bánh chưng đầu năm mang lên, xanh mịn trên đĩa
trắng. Bánh chưng gói khéo thì vuông và chắc rắn: gạo  mềm và nhiễn, nhân
đậu và mỡ quánh vào nhau. Chỗ nạc thì tơi ra như bông gạo Có nhà gói lắm nạc, nhưng nhiều mỡ vẫn ngon
hơn: mỡ phần, chỗ giọi, lúc chín thì trong, và không có thớ. Bánh chưng kể mặn
là phải vị. Nhưng có dăm bảy chiếc gói ngọt cũng hay. Chỉ khó làm sao cho đừng
sượng, và đường với đậu phải biến với nhau mà thôi.


     Tưởng lúc xén đũa đưa
miếng bánh chưng lên, thoảng mùi lá dong thơm và mùi nếp cái, ăn với dưa hành
trong như ngọc thạch, hoặc với củ cải đậm và ròn như pháo xuân! Đó là tất cả
hương vị của cái tết Annam, ngày nay và ngày xưa.


    Sáng mồng một, chúng
ta uống rượu và ăn mứt. Rượu hẳn là phải rượu tây: những thứ vang cũ ngọt như
Porto, nồng chua như Vermouth, hay say như Cognacq. Uống những thứ ấy thích hơn
liqueurs. Nhưng sao ta không có rượu ngon của ta? Tiếc vì bây giờ cái gì của
người mình cũng vụng về và giả dối. Còn đâu thứ rượu cau có tiếng ở Hoàng Mai,
thứ rượu cúc nổi danh ở tỉnh Bắc? Cái hào nhoáng, cái lộng lẫy bề ngoài đã thay
cái chân thực, cái cẩn thận của người xưa. Đơn sơ và cẩu thả đã cướp chỗ của tốt
bền, ở tất cả những sản phẩm của nước mình.


    Mứt ngày trước cũng
ngon và khéo léo hơn mứt bây giờ. May gần đây, sự làm đã khá. Đã có mứt sen Cự
Hương, mứt khoai Việt Hương, vị cũng nhã, mà trình bày lại sạch sẽ, tinh tươm.
Đem làm quà ngày Tết kể cũng tạm được.


     Mứt phải đủ ngũ vị:
ngọt, bùi, đậm, béo và cay. Thứ mứt gừng cay là quý nhất. Chỉ tiếc thay mứt gừng
ngoài Bắc thô và mạnh quá. Tôi ước ao được một ngành mứt gừng ở trong Trung
 -mứt
gừng của Huế, làm bằng mầm gừng non và cả nhánh, trong như ngọc và cay, mềm dịu
cũng như con gái Huế.


    Thế rồi đi du xuân ngày mồng một, nhìn cây
nêu phấp phới trước các nhà, tiếng khánh sành reo theo gió. Một cuộc hoà
nhạc của sắc màu: quần áo mới của bầy trẻ, xác pháo đỏ trên gạch rêu, màu hồng
nhạt hay đỏ tươi của câu đối giấy dán trên cổng, và màu củ cẩm (hay cánh
sen) trên những tranh tết
 - nhất
cái màu tím mát ấy, màu của đất nước Annam, của thời xưa chân thật mà không bao
giờ nhìn tôi không thương nhớ ngậm ngùi…


   Trong lúc đó, trời xuân
đầy mây thấp và gần gụi, thời tiết êm ả như đợi chờ, gió xuân nhẹ như hơi thở,
và cây cối đều nở mầm non, lộc mới
 - tất cả cái gì như đầm ấm, như dịu dàng. Còn
hưởng cái thú nào man mác và thanh cao hơn nữa?


   Cho nên ngày Tết, tôi
mong các bạn cùng vui vẻ tươi sáng như ánh mùa xuân, trong khi lần giở những
trang của tập báo vì các bạn này.


 Ngày Nay số xuân 1940         

Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét