Dịch thơ cổ: Nguyễn trãi 9

THƠ LÀM SAU KHI THÀNH CÔNG 
VÀ LÀM QUAN Ở TRIỀU (31 BÀI)


Bài 26
題安子山花煙寺
安山山上最高峰,
纔五更初日正紅。
宇宙眼窮滄海外,
笑談人在碧雲中。
擁門玉槊森千畝,
掛石珠流落半空。
仁廟當年遺跡在,
白毫光裏睹重瞳。

                  阮廌

Phiên âm
Ðề Yên Tử sơn Hoa Yên tự  (1)

Yên sơn sơn thượng tối cao phong,
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng.
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại,
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung.
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu,
Quải thạch châu lưu lạc bán không.
Nhân miếu (2) đương niên di tích tại.
Bạch hào quang (3) lý đỗ trùng đồng (4).

                                      Nguyễn Trãi
Ghi chú
1Yên Tử Sơn: núi Yên Tử tại Đông Triều, tỉnh Quảng Yên (Bắc Việt) còn mang tên là Tượng Đầu Sơn (núi Đầu Voi). Tương truyền Yên Kỳ Sanh người Trung Quốc tu luyện tại núi này nên gọi là núi Yên Tử. Trên ngọn cao nhất có chùa Hoa Yên là nơi vua Trần Nhân Tông (1257 - 1308) lên tu đạo Phật sau khi nhường ngôi cho con (1293). Ngài trở thành Trúc Lâm Đệ Nhất Tổ và tịch ở đây, miếu thờ còn ghi dấu tích với tháp và tượng đá.
2.Nhân miếu: miếu thờ vua Trần Nhân Tông
3.Bạch hào quang: long mi trắng phát quang rực rỡ, là một trong những tướng lạ của Phật. Đây nói về Trúc Lâm đệ nhất tổ.
4.Trùng đồng: hai con ngươi trong mỗi con mắt. Tương truyền vua Trần Nhân Tông có tướng lạ là mắt có hai con ngươi, biểu tượng của việc nhìn xa thấy rộng như trường hợp của vua Thuấn và vua Hạ Vũ bên Trung Quốc cũng “trùng đông” (theo sử ký Tư Mã Thiên).
Dịch nghĩa

Đề ở chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử

Núi Yên Tử cao nhất trên dãy núi
Mặt trời đỏ rừng đầu trống canh năm
Phỏng mắt trong vũ trụ trong suốt ngoài biển xanh
Tiếng người cười nói trong mây biếc
Trước cửa hộ vệ có nghìn mẫu giáo ngọc xum xuê (trúc)
Ðã rủ những tua hạt châu rơi xuống lưng chừng không.
Di tích vua Trần Nhân Tông còn đó mãi
Giữa bóng sáng lông mày trắng được thấy 

                                           trong đôi mắt (trùng đồng)



Dịch thơ
Yên Sơn cao tận tít tầng không

Rạng sáng vầng dương đã đỏ hồng

Phóng mắt biển xa cùng vũ trụ

Nói cười người ở giữa mây bông

Xum xuê rừng trúc măng bày giáo

Lơ lửng châu rơi đá thả dòng

Di tích Nhân Tông còn đó mãi

Dưới đôi mi sáng mắt trùng đồng.

                      Đỗ Đình Tuân dịch



Bài 27

雲屯



路入雲屯山復山,
天恢地設付奇觀。
一盤藍碧澄明鏡,
萬斛鴉青鬌翠鬟。
宇宙頓清塵海岳,
風波不動鐵心肝。
望中岸草萋萋綠,
道是藩人駐舶灣。

                  阮廌

Phiên âm

Vân Đồn (1)

Lộ nhập Vân Đồn sơn phục sơn,
Thiên khôi địa thiết phó kỳ quan.
Nhất bàn lam bích trừng minh kính,
Vạn hộc nha thanh đỏa thúy hoàn.
Vũ trụ đốn thanh trần hải nhạc,
Phong ba bất động thiết tâm can.
Vọng trung ngạn thảo thê thê lục,
Đạo thị phiên nhân trú bạc loan.

                               Nguyễn Trãi
Ghi chú
1. Vân Đồn: huyện Vân Đồn thuộc tỉnh Quảng Ninh, nơi có núi Đoạn Sơn. Giữa hai ngọn núi (đoạn sơn) có con sông chảy, có cắm cừ làm thủy môn, ven sông có dân ở. Đời Lý Trần (1010 - 1400) có thương thuyền nước ngoài đậu buôn bán ở đây.    
Dịch nghĩa

Vân Đồn

Đường vào Vân Đồn núi non trùng điệp
Trời đất cao rộng rõ là cảnh diệu kỳ
Cả một mặt phẳng màu xanh biếc, nước trong như gương sáng
Hàng vạn ô màu huyền xanh như mái tóc rũ
Vũ trụ bỗng thể hiện rõ ràng qua dáng núi và biển
Sóng gió chẳng lay chuyển được tâm can vững chắc
Nhìn vào thấy bờ cỏ màu lục xanh dờn
Thấy nói người láng giềng xưa từng đỗ thuyền trong vịnh.

Dịch thơ

Đường đến Vân Đồn non lại non

Đất trời bày đặt bao kỳ quan

Biển xanh phẳng lặng như gương sáng

Núi biếc nghìn ô rủ tóc mềm

Vũ trụ hiện hình nhờ núi biển

Phong ba không chuyển được lòng son

Nhìn bờ cỏ mọc xanh mơn mởn

Nghe nói người Ngô trước đỗ thuyền.

                      Đỗ Đình Tuân dịch



Bài 28

白藤海口



朔風吹海氣凌凌,
輕起吟帆過白藤。
鱷斷鯨刳山曲曲,
戈沉戟折岸層層。
關河百二由天設,
豪傑功名此地曾。
往事回頭嗟已矣,
臨流撫影意難勝。

                 阮廌 

Phiên âm

Bạch Ðằng hải khẩu (1)

Sóc phong xung hải khí lăng lăng,
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Ðằng.
Ngạc đoạn kình khoa  sơn khúc khúc,
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.
Quan hà bách nhị (2) do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,
Lâm lưu phủ ảnh  ý nan thăng.

                              Nguyễn Trãi
Ghi chú

1.Bạch Đằng hải khẩu: Cửa khẩu Bạch Đằng là một danh lam thắng cảnh, nơi đã từng hai lần quân Việt Nam đánh bại quân Trung Quốc xâm lược, Ngô Quyền (thế kỷ 10) phá quân Nam Hán, bắt sống thái tử Hoằng Thao, Trần Hưng Đạo (thế kỷ 13) đại thắng quân Nguyên, bắt được các tướng Ô Mã Nhi, Phan Tiệp, Tích Lệ...
2.Quan hà bách nhị : ý nói địa thế hiểm trở hai người có thể địch trăm người

Dịch nghĩa

Cửa biển Bạch Đằng

Cửa biển lồng lộng, gió bấc thổi băng băng;
Buồm thơ nhẹ lướt qua sông Bạch Ðằng.
Nhìn núi từng khúc, như cá mập, cá sấu bị chặt từng đoạn,
Nhìn bờ từng lốp, như giáo kích gươm đao bị gãy chìm.
Cảnh núi sông hiểm yếu, tạo ra cái thế "lấy ít địch nhiều",
Ðây là nơi hào kiệt từng lập nên công danh oanh liệt.
Việc xưa nghĩ lại, ôi tất cả đã qua rồi!
Tới đây viếng cảnh, nỗi lòng sao biết nên chăng?

Dịch thơ

Ù ù gió bấc biển như băng

Nhẹ lướt thuyền thơ đến bạch Đằng

Chặt ngạc phanh kình non đoạn đoạn

Qua chìm giáo gãy bãi tầng tầng

Quan hà hiểm yếu trời bày đặt

Hào kiệt công danh đất lấp bằng

Chuyện cũ ngoái đầu đâu thấy nữa

Não lòng trước cảnh ý khôn dâng.

                        Đỗ Đình Tuân dịch



Bài 29

靖安晚立



淡煙疏雨晚摸糊,
水色天光半有無。
萬古乾坤清景致,
海山為我出新圖。

                 阮廌

Phiên âm
Tĩnh Yên vãn lập
Đạm yên sơ vũ vãn mô hồ,
Thuỷ sắc thiên quang bán hữu vô.
Vạn cổ càn khôn thanh cảnh trí,
Hải sơn vị ngã xuất tân đồ.
                              Nguyễn Trãi

Dịch nghĩa

Khói nhạt mưa thưa trời chiều bảng lảng

Sắc nước ánh trời nửa như có nửa như không

Trời đất muôn đời cảnh trí vẫn thanh nhã

Núi biển vì ta mà bày ra bức tranh mới

Dịch thơ

Trời chiều khói nhạt mưa thưa

Ánh trời sắc nước mơ hồ có không

Muôn đời trời đất thanh trong

Vì ta núi biển đang cùng treo tranh.

                         Đỗ Đình Tuân dịch



Bài 30

冤嘆



浮俗升沉五十年,
故山泉石負情緣。
虛名實禍殊堪笑,
眾謗孤忠絕可憐。
數有難逃知有命,
文如未喪也關天。
獄中牘背空遭辱,
金闕何由達寸箋。

                  阮廌

Phiên âm

Oan thán (1)

Phù tục thăng trầm ngũ thập niên,
Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
Hư danh thực họa thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
Số hữu nan đào tri thị mệnh,
Văn như vị táng dã quan thiên.
Ngục trung độc bối (2) không tao nhục,
Kim khuyết hà do đạt thốn tiên.

                                 Nguyễn Trãi

Ghi chú

1. Bài thơ này chắc là được sáng tác năm Thuận Thiên thứ 2 (1429) lúc tác giả bị bắt giam vì nghi có liên can với tướng Trần Nguyên Hãn, anh em họ ngoại của tác giả, từng theo Lê Lợi tại Lam Sơn nhưng bị Lê Lợi bức tử (trầm mình) vì nghi làm phản.

2.Ngục trung độc bối: đọc chữ viết ở sau lưng tờ giấy ở trong ngục. Theo Hán thư(Chu Bột liệt truyện), Chu Bột là một công thần của Hán Cao Tổ, làm đến chức hữu thừ tướng, nhưng bị vu oan là làm phản nên bị hạ ngục. Họ Chu phải dùng nghìn vàng để được giải cứu. Khi thẩm vấn, quan cai ngục viết chữ vào phía sau lưng tờ giấy đang đọc nhắc cho ông nêu tên nàng dâu trưởng của ông là một công chúa đến làm chững minh oan cho ông. Nhờ thế ông được tha.Đõ là xuất xứ của cụm từ “độc bối” (đọc chữ phía sau tờ giấy).
Dịch nghĩa

Than oán

Nổi chìm trong cảnh phù tục đã năm mươi năm
Đành phụ với khe đá núi cũ
Danh hư mà họa thực, thật đáng buồn cười
Chúng nhạo kẻ trung thành đơn độc thật đáng thương hại
Khó chạy khỏi số trời, biết là có mạng
Nền văn cũng chưa mai một nhờ trời
Trong ngục xem lưng tờ giấy, thật là nhục nhã
Làm sao đạt được tờ giấy (khiếu oan) đến cửa khuyết vàng (cung vua)?

Dịch thơ

Năm chục năm chìm nổi thế gian

Khe xưa núi cũ lỗi muôn vàn

Danh hư vạ thật buồn cười thế

Gièm lắm can không thật đáng than

Khó chạy khỏi trời hay có mệnh

Văn còn chưa mất cũng trời ban

Đọc lưng tờ giấy ôi sao nhục

Cửa khuyết khi nào giãi nỗi oan?

                    Đỗ Đình Tuân dịch
22/5/2012

Đỗ Đình Tuân
Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét