Xuân Sách và chân dung các đồng nghiệp












  Bài đã in trên blog này 21-4-2009, nhan  đề XUÂN SÁCH hay là một đặc sản văn chương, 



Những nét sinh hoạt
của những người cầm bút thời nay đã được nhiều người trình bày lại một
cách tự nhiên, trong số này giỏi nhất phải kể Tô Hoài. Ông biết gỡ đi
phần hào quang chói lọi mà người ta hay lấy ra để lãng mạn hóa các nhà
văn. Ông làm cho cái nghề gọi là sáng tạo này gần gũi với đời thường.
Chỉ ông mới dám đưa Nguyễn Tuân vượt ra ngoài cái thiêng liêng giả tạo
ngả sang làm dáng, để trở về với những chuyện mè nheo hàng ngày, dù vẫn
không vì thế mà làm mất đi vẻ đáng yêu đáng kính của cụ Nguyễn. Từ
trường hợp Nguyễn Văn Bổng, Tô Hoài làm nổi tính chất nghiệp dư của một
nền văn học. Chút thoáng điên điên khùng khùng của Võ Huy Tâm mà ông nói
tới được người ta tin, vì bắt nguồn từ những quan sát thực và mở đường
cho sự cắt nghĩa vận mệnh ngắn ngủi của nhà văn này. Những trang chân
dung Trọng Hứa cho ta thấy trong mỗi con người còn bao nhiêu mày nét
khía cạnh vừa chân thành đáng yêu vừa nhởn nhơ phù phiếm.




Tôi học theo cách làm của Tô Hoài khi viết về một người thầy như Nhị Ca, một người bạn như Nghiêm Đa Văn.

Ở buổi hoàng hôn của cuộc đời, tôi lại nghĩ nhiều về Xuân Sách.

Xuân Sách là một đặc
sản kỳ lạ của giới cầm bút HN những năm chống Mỹ và vài chục năm tiếp
sau. Người nổi tiếng trong giới xưa nay là người có tác phẩm, hoặc các
quan chức. Xuân Sách không có cả hai cái đó, chỉ có một ít bài thơ chân
dung, bằng giọng đùa bỡn trêu chọc nói về hàng loạt nhà văn đương
thời.Vậy mà người ta luôn phải nhớ đến ông. Chỉ vì ông biết gây cười ?
Không hẳn, những giai thoại mua vui một cách nông nổi, không thể có sức
sống dai dẳng như vậy. Giữa đám đông chúng sinh, chỉ cần đọc lên vài
dòng chân dung ông viết là không thiếu kẻ bị hút hồn. Các nhà văn vốn có
thói quen ích kỷ tự nhiên bị chạm nọc. Người ngoài cuộc nghe rồi vẫn
muốn nghe lại.


Nhiều khi nói tới một
người cụ thể nào đó, thực ra Xuân Sách đang nói tới cả giới, nói tới
những kiếp người khác nhau trong giới.Và từ những người cầm bút, trong
một mức độ nào đó, nhà thơ gợi ra cho ta liên tưởng tới những người ở
các giới khác.


Không phải tất cả mà
chỉ một số nhỏ coi như thành công. Nhưng trong trường hợp thành công,
các chân dung ấy đã vẽ ra một hình ảnh khắc hoạ được một tính cách, ghi
nhận một lẽ đời, từ đó nhắc nhở người ta một vấn đề nào đó của cuộc
sống.


Thay cho hai chữ tài năng, ta nên nói tới khái niệm: những cách tồn tại trong văn học.

Theo tiêu chuẩn này
thì Xuân Sách đã tìm thấy mình thật: Tồn tại như một người viết về đồng
nghiệp, thấy mỗi đồng nghiệp là một kiếp người “nghiêm chỉnh một cách
rầu rĩ”.


Những năm chiến tranh,
tôi đã sống với con người này trong một cơ quan theo cái nghĩa 24/24.
Tức là làm việc và nghỉ ngơi trong cùng một doanh trại. Có thể ghé vào
phòng nhau bất cứ lúc nào. Gần như suốt ngày trông thấy mặt nhau. Từ sau
1975, tuy Bắc Nam mỗi người một nơi, song vẫn hay nghĩ tới nhau. Trước
nhiều hiện tượng của đời sống văn nghệ, tôi vẫn thường tự hỏi trong
trường hợp này Xuân Sách nghĩ như thế nào nhỉ.


Đúng là ba chục năm
cuối đời ông đã thay đổi, không còn nguyên vẹn Xuân Sách mà tôi từng
biết ngày xưa. Nhưng những tư tưởng chính của ông thì đã hình thành từ
những năm chiến tranh, cái đường cái mạch phát triển của ông vẫn có sự
tiếp nối với thuở ban đầu mà tôi biết.


Qua ông tôi muốn ít chuyện đời thường của giới văn chương.



Từ truyền khẩu đến truyền thần

Tất cả những bài viết về Xuân Sách mươi năm gần đây đều nhắc tới những
bài thơ được in trong tập Chân dung nhà văn. Đến nỗi khi thấy một tờ báo
nọ trong thông báo về cái chết của ông mà bỏ qua chi tiết này, một tờ
báo khác đã phải lên tiếng thắc mắc.

Vậy thơ chân dung là gì ? Và đóng góp của Xuân Sách trong thơ chân dung là gì ?

Việc mang tên tuổi, tính nết và công việc của các đồng nghiệp ra mà chế
giễu vốn là một thú vui có ở mọi nghề. Sự đời lắm vẻ, mỗi chúng ta dù có
cố gắng đến mấy cũng chẳng bao giờ vừa lòng với nó. Huống chi lại còn
bao nhiêu bực bội khó chịu nảy sinh hàng ngày, nếu như không có nụ cười
thì sống sao nổi!

Mà các đối tượng mình hiểu sâu nhất để rồi dễ mang ra cười cợt nhất, và
giá có cười quá to, cười sỗ sàng một chút, cũng dễ được tha thứ nhất, ấy
vẫn là các đồng nghiệp. Giá như ai có để công sưu tầm, chắc sẽ làm
thành những bộ sách lý thú, đại loại nụ cười viên chức, nụ cười nghề y,
nụ cười nhà giáo.

Thế nhưng nói chung nhiều người vẫn thường có cảm giác rằng sự đùa bỡn
chế giễu nhau trong giới cầm bút là phổ biến hơn. Tại sao?

Một là ở đây người ta dễ nhận xét nhau đau hơn, ác hơn, điểm huyệt đích
đáng hơn; và hai là một đôi khi, nó lại được đưa lên mặt giấy, và dù in
chữ nhỏ, in vào chỗ khuất đến mấy, mọi người đều tìm đọc - báo ngày hôm
nay đã vậy mà báo ngày xưa cũng vậy.

Có lần tôi đã chép được một loạt thơ chân dung kiểu này trên báo Ngày nay xuân 1940.

Vào thuở đang thịnh, Tự lực Văn đoàn của các nhà văn Nhất Linh, Khái
Hưng... nổi lên như một tổ chức văn học đầy uy tín tới mức họ thường
xuyên đùa giỡn trước mặt mọi người, “xoa đầu’ anh em trong giới. Nhân
một số báo xuân, Lê Ta (Thế Lữ) cùng Tú Mỡ mở mục Minh niên giáng bút,
mượn lời một bà già khăn chầu áo ngự để “phán” về các đồng nghiệp...
Theo chính Lê Ta và Tú Mỡ nhấn mạnh thì trong “lời phán” này” có những
chữ, hoặc những nghĩa, hoặc những ý tứ có liên quan đến tên tuổi, đến
tâm tính hay công việc của từng người”. Bởi vậy, mặc dù không chỉ đích
danh, song đọc lời “phán”, mọi người ai cũng đoán ra ngay người được
“phán”.

Dưới đây là một ít câu Minh niên giáng bút.

Tam Lang

Tưởng người cùng xóm văn chương

Học đòi lại muốn theo phường kéo xe

Nhưng thân phục phịch nặng nề

Kéo xe chẳng nổi quay về kéo... văn



Lê Văn Trương

Nói năng hùng dũng hơn người

Khôn vì xuôi ngược đã mười năm xưa

Đầu làng sức mạnh có thừa

Vỗ vào ngực thét: tôi thờ trái tim



Lưu Trọng Lư

Cái tên này cũng đáng ngờ

Ấy bình hương khói hay lừa nặng cân

Làm thơ giàu điệu nghèo vần

Ra đời với bác sơn nhân độ nào



Lan Khai

Tên đâu trái ngược lạ đời

Là hoa mà lại có mùi... chẳng thơm

Tài trông anh Mán phi gươm

Chú Mèo lãng mạn, cô Mường ngâm thơ

Lan Khai

Tên là Lan ở trên đời

Chẳng thơm hẳn đã có mùi khai khai

Viết văn kể chuyện dông dài

Ở trên mạn ngược làm vui đường rừng



Các vần thơ này đã sử dụng được những gì liên quan đến tên tuổi và tên các tác phẩm của người được nói tới.

Tuy nhiên đó mới là điều kiện tối thiểu. Nếu chỉ dừng lại ở một vài chi
tiết hóm hỉnh đọc lên nghe cũng vui vui thì chúng ta chưa thể thích được
hoặc chỉ là cái thích nông nổi. Đây cũng là chỗ dừng của Minh niên
giáng bút.

Trong đời sống văn học Hà Nội nửa sau thế kỷ XX, số chân dung viết linh
tinh cũng nhiều vô kể. Trên nguyên tắc thì thời nay ai cũng bảo là hoan
nghênh người khác phê bình góp ý kiến cho mình. Nhưng trong thực tế mỗi
người là một khối cá nhân thô cứng không gì thâm nhập nổi. Có thể là tôi
cũng biết khuyết điểm của tôi đấy. Nhưng xin các anh kệ tôi, mặc cho
tôi lừa cấp trên và lừa mọi người.

Không được đưa ra công khai, những nhận xét về nhau biến thành những lời
xầm xì ở chỗ riêng tư, thành những giai thoại đồn thổi rộng rãi, rồi
đúc lại thành thơ chân dung. Trong số này, có nhiều cái là do nhân tiện
mà viết, làm cho vui, chả ai coi là việc nghiêm chỉnh. Tuy nhiên cũng có
một số ít đạt tới mức sâu sắc với nghĩa truyền thần được đối tượng,
điểm trúng huyệt họ, bóc mẽ lật tẩy được cái gì mà họ muốn che giấu.

Lấy một ví dụ. Khi người lẫn với ma -- nói như chữ của Tô Hoài -- thì việc gọi ra chất ma ở kẻ khác là cả một điều an ủi.

Viết về Nguyễn Tuân

Một mắt lư đồng một mắt cua

Chém treo ngành toàn chém a dua

Hà Nội đánh Mỹ giỏi, thua bác

Cả đời ăn phở chẳng cần mua...

Hay đấy chứ! Và không hiếm đâu!

Nhưng chưa ai làm công việc thu thập đánh giá các bài thơ chân dung này cả.

So với những người đương thời có thể nói Xuân Sách đi xa hơn cả với
nghĩa làm được nhiều và nhất là có những chân dung có ý nghĩa xã hội
rộng rãi.

Thử làm một so sánh. Cùng viết về Nguyễn Tuân, của Lê Ta và Tú Mỡ

Nghe vang theo bóng một thời

Tên này thực biết vâng lời người trên

Bây giờ gần gụi ả phiền

Hỏi han câu chuyện ngọn đèn dầu ta.

của Xuân Sách

Vang bóng một thời đâu dễ quên

Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên

Chén rượu tình rừng cay đắng lắm

Tờ hoa lại chuốc lệ ưu phiền

Cùng viết về Nguyễn Công Hoan, của Lê Ta và Tú Mỡ

Rằng tên thì thực là vui

Nụ cười thoang thoảng có mùi ngang ngang

Vai hề to tiếng hý trường

Ở trong động quỷ là phường ranh ma

Của Xuân Sách

Bác kép Tư Bền rõ khéo vui

Trời còn chưa sáng bác nhầm thôi

Bới tung đống rác nên trời phạt

Trời phạt chưa xong bác đã cười



Sinh ra để nói về các đồng nghiệp

Xuân Sách người thấp, dáng đi chắc chắn. Mắt sáng, trán cao, đầu nặng
như ẩn chứa một cái gì không thoát ra được. Hình ảnh tôi nhớ nhất về anh
-- từ đây trở xuống xin phép gọi Xuân Sách là anh-- khi cùng sống ở 4
Lý Nam Đế, là những lúc nhà thơ tập trung suy nghĩ. Chuẩn bị cho trang
viết, trầm ngâm đi lại, như bị thu hút hoàn toàn vào một điều gì đó? Hay
những lúc ấy anh đang bí? Có thể lắm. Nhưng không sao. Khi đã nghĩ kỹ
rồi, Xuân Sách viết rất nhanh, bản thảo sạch sẽ tươm tất, mà theo anh
kể, chỉ thua có Phù Thăng.

Có một số người động ngồi viết là vất vả như đi cày , trước mặt giấy tờ
ngổn ngang, cái gạt tàn thuốc lá cao có ngọn. Xuân Sách thì ngược lại,
phòng văn sạch sẽ trống trơn. Có lúc chúng tôi nói đùa, ông này viết như
ăn vụng, tắc lẻm một cái là xong.

Hồi Văn nghệ quân đội sơ tán ở Thạch Thất Hà Tây, Xuân Thiều và Nguyễn
Minh Châu ở nhờ nhà một cụ già là cụ Quàng. Ông cụ có cái tính chung của
người mình là hay để ý vặt. Chắc là nhiều lần trong khi dọn dẹp, ông cụ
đã ngắm nghía trang viết của hai nhà văn khoác áo lính. Một lần cụ đột
ngột tung ra một câu khái quát, khiến chúng tôi khi nhắc lại, cùng cười
lăn cười lộn:

-- Văn bác Châu không bằng văn bác Thiều. Văn bác Châu hay dập xóa. Văn bác Thiều sạch sẽ hơn, đọc được ngay.

So với Xuân Thiều bản thảo Xuân Sách lại còn suôn sẻ hơn. Nó là dấu ấn của một người tự tin và cũng dễ bằng lòng với mình.

Đều đặn, chân phương, biết thân biết phận, nhưng lại có chút gì đó hơi
hèn hèn thế nào … đấy là tinh thần toát ra qua nét chữ ở cuốn sách khổ
nhỏ Chân dung nhà văn đã in.( Thông thường bản thảo đưa xuống nhà in là
qua đánh máy; lần này Xuân Sách đã viết trực tiếp rồi chuyển cho Lữ Huy
Nguyên.)



Phần lớn các nhà văn công tác ở tạp chí Văn Nghệ quân đội sinh năm 1930.
Đặt bên những người này Xuân Sách chỉ kém hơn có hai ba tuổi.

Nhưng sao so với họ, tôi cứ cảm thấy anh lép vế rõ rệt. Phần thì tại anh
về sau, tức là mãi 1960 mới gia nhập tập thể này, mà đó là lúc tất cả
đã định vị.

Và cái chính là anh thiếu một tuổi trẻ oai hùng.

18 tuổi Hồ Phương có Thư nhà, 22 tuổi Nguyên Ngọc có Đất nước đứng lên,
27 tuổi Nguyễn Khải có Mùa lạc. Xuân Sách thì sao? Lớp trẻ về sau nhắc
tới anh, bảo đã có đọc Đội du kích thiếu niên Đình Bảng ( in lần đầu
1971) của anh từ nhỏ. Nhưng tôi biết hồi 1971, các đồng nghiệp trong cơ
quan chẳng ai nói một câu nào về cuốn sách đó cả. Mà lúc đó anh cũng sắp
sửa sang tuổi 40.

Xuân Sách hiểu điều đó. Khi bị người ta lãng quên, anh không đòi hỏi.
Nói chung anh có lối sống bình thản của người gọi là biết thân biết
phận, không lồng bồng mơ tưởng hão hiền. Cái nhìn đằm hơn về thế sự. Sự
thông cảm dễ dàng với những cái tầm thường. Khả năng đơn độc trên con
đường mình chọn cho riêng mình …

Về sau này khi đã nổi tiếng, niềm kiêu hãnh ở Xuân Sách nhiều khi có trở
thành quá đáng, nhưng tôi biết nó chẳng qua chỉ là phản ứng tự nhiên
của người đã ngụp lặn trong sự vô danh quá lâu, mà lại thừa thông minh
để biết rằng thực ra có những lĩnh vực mình chẳng kém gì người đời.

Xuân Sách những năm ấy gợi cảm giác một người yên lặng làm những công
việc bình thường, nó là những việc bếp núc của một cơ quan báo chí thời
chiến.

Trong chiến tranh, các nhà văn ở Văn nghệ quân đội năm ấy có sự phân
hóa. Đội cận vệ đỏ, những Hữu Mai Hồ Phương Nguyễn Khải Nguyễn Minh Châu
càng viết càng ăn nhập với tình hình. Lúc nào cũng có bao nhiêu đề tài
đặt ra cho họ. Đi viết vừa nổi tiếng lại vừa có thu nhập cho gia đình –
không ai nói ra nhưng ai cũng biết vậy.

Ừ thì cho rằng hồi ấy người ta nghĩ đến tiền một cách chừng mực không
thành ám ảnh như bây giờ. Nhưng có đồng ra đồng vào rủng rỉnh vẫn hơn
chứ?!

Lại còn cái chuyện con gà tức nhau tiếng gáy, ai mà không biết.

Cắn răng mà viết, mặt dày mà viết, viết được là có tất cả! Giữa thời
trang sách lên ngôi, không ai muốn ngồi tổ chức các trang báo, đọc và
chữa chạy các bài lai cảo, nói gọn lại là làm biên tập nữa. Bởi làm biên
tập nghĩa là ngồi lo việc chung, vinh quang người khác hưởng, công lao
mình thì chả ai biết.

Bấy giờ ban phụ trách phải trông chờ vào lớp sau, tức mấy người viết trẻ hơn và cũng phải nói thực, là ít tài hơn.

Dường như sinh ra để làm việc này, Xuân Sách đặc biệt nổi lên ở mấy khía
cạnh. Một là đa di năng gì cũng làm được; hai là tương đối biết người
biết của, biết điều trong giao thiệp và không đến nỗi quá cứng trong
quan niệm.

Xuân Sách đó, những năm cuối chiến tranh, trở thành cánh tay mặt của chủ
nhiệm Vũ Cao. Hơn nhau chục tuổi, một già một trẻ làm với nhau hợp đến
nỗi sau này khi được gọi ra nắm Nhà xuất bản Hà Nội( 1980) thì Vũ Cao
kéo Xuân Sách ra làm phó. Mà đến lúc Vũ Cao về hưu thì Xuân Sách cũng
vào luôn trong Bà Rịa Vũng Tàu, để trụ lại ở đó cho đến những ngày cuối
cùng của cuộc đời.

Tại sao Xuân Sách thích ứng với cái vai trò bắt gôn ở tờ báo như vậy?
Trước khi chuyển về Văn nghệ quân đội, anh đã công tác ở một đoàn văn
công. Nhiều tài lẻ. Làm thơ viết văn món gì cũng biết. Làm cả những việc
mà người khác không muốn làm. Và có thể làm nhiều việc cùng một lúc.

Từ khoảng 1971 trở đi, anh đã là một tượng trưng của cái đời thường ở Văn nghệ quân đội.

Những năm chiến tranh, không khí xã hội lúc nào cũng căng như dây đàn,
mà kỷ luật tuyên truyền rất ngặt nghèo. Đi đâu về, muốn hiểu chung về
tình hình cơ quan, có chỉ thị mới gì cấp trên mới truyền xuống ai sắp
được phân công đi viết về đâu ai viết cái gì cấp trên không bằng lòng --
tất cả những thông tin quan trọng mà lại không chính thức ấy -- phải
hỏi anh. Cả chuyện chính trị nữa. Chiến trường lính tráng đang đánh giặc
ra sao. Rồi ai hục hặc với ai, có đám hủ hóa nào mới bị phát giác...
chả có cái gì mà anh không biết.

Thú vị nhất là, với từng cá nhân, sự đánh giá của Xuân Sách là đáng tin
cậy. Không chỉ thông minh sắc sảo hơn người, anh còn tổng kết được cái
phần tinh túy trong ý của người khác từ đó làm nên ý kiến của mình. Và
cách tổng kết của anh thì gọn gàng, có pha một chút thậm xưng, như những
bức biếm họa mà người ta thấy ở báo chí văn chương nước ngoài. Thứ đặc
sản của anh bắt nguồn từ cách sống cách nghĩ mà không cần cố gắng anh
cũng đã tự hình thành cho mình.

Xin kể một chuyện liên quan đến tài nhìn người của Xuân Sách .

Hết khôn dồn sang dại, lúc tán chuyện, thỉnh thoảng chúng tôi thử ngồi
sắp người cho một số vị trí trong cơ quan. Xuân Sách có lần hứng khởi
đầu têu:

-- Nếu làm chủ nhiệm, cần kiện toàn lại toà soạn. Trước tiên là phải lấy bằng được một ban trị sự cho vững. Phân công như sau:

Hồ Phương cho đi lái xe (Nguyễn Khải đế ngay: Đúng quá vừa lái, vừa huýt sáo ầm ĩ).

Ông Khải lắm mồm cho đi phát hành.

Hữu Mai cẩn thận cho giữ dấu.

Từ Bích Hoàng cho giữ kho .

Một người vâng dạ, đáng làm người công vụ, như một thứ bõ già: Thanh Tịnh.

Nấu bếp: Nhị Ca

Xuân Thiều làm trưởng ban trị sự

Mọi người cười lăn. Xuân Thiều: Yên chí, mình sẽ rất rộng rãi với các cậu.

Một lần khác anh dựng lên mấy cặp biên tập và bình luận

Cặp 1: Chủ nhiệm Thanh Tịnh. Thơ Xuân Miễn. Văn Vũ Sắc. Lý luận Trần Cư
-- Suốt ngày bàn chuyện cổ lỗ như đám quan viên trong làng.

Cặp 2: Chủ nhiệm Hữu Mai. Văn Xuân Thiều. Thơ Hồ Khải Đại. Lý luận Đại Đồng -- Suốt ngày bàn chuyện đấu đá.

Cặp 3: Chủ nhiệm Hồ Phương. Văn Mộng Lục. Thơ Xuân Thiêm. Lý luận Nhị Ca
-- Suốt ngày bàn chuyện mua cái gì, đi ăn uống ở chỗ nào.

Cặp 4: Chủ nhiệm Nguyễn Minh Châu. Văn Đỗ Chu. Thơ Lưu Quang Vũ. Lý luận
Vương Trí Nhàn .Thì độ mấy hôm cả bọn bị gọi lên kiểm điểm .

Ai cũng nhận Xuân Sách giỏi phân tích người – trong nghiên cứu gọi là
“loại hình hoá” người -- từ đó ghép người thành bộ và chỉ ra cả tương
lai của những cơ cấu đó.

Việc “giữ gôn”ở báo tưởng như rất bận mà lại nhởn nhơ không đâu vào đâu.
Xuân Sách là vậy , khách nào cũng tiếp , bài vở chỉ đọc một lượt là
biết có dùng được hay không. Sẵn sàng xà vào các đám tán róc. Thế mà
việc gì cũng xong.

Người vợ đầu cùng sống với anh lúc đó là chị Thẩm. Tháng đôi lần thấy
Xuân Sách xách cặp về phố Thắng với gia đình. Thưa hơn một chút, chị
Thẩm và bọn trẻ con kéo xuống cơ quan. Ra chợ Bắc Qua hoặc chợ Hòe Nhai
về, đóng cửa lại nấu nướng bằng bếp điện.

Sau bữa ăn trẻ con xuống nhà chơi. Những buổi chiều, trên cái sân xi
măng dưới bóng mấy cây đại, gần nửa dân sống ở cơ quan “ họp chợ”, tức
là tập hợp lại trao đổi thông tin, ai đi đâu có chuyện gì lạ kể hết, rồi
trêu ghẹo đùa bỡn với nhau.

Cháu là Ngô Thị Vân Hoài

Con ông Xuân Sách

Ngồi lê đôi mách

Cháu cô Xuân Quỳnh

Nghiên cứu phê bình

Cháu cô Minh Mẫn

Lẩm cà lẩm cẩm

Cháu chú Thanh Tâm

Cám hấp cám hâm

Cháu chú Minh Tước

Để sau quên trước

Cháu chú Minh Châu

Không đâu vào đâu

Cháu cô Hồng Điệp

Lòng gang dạ thép

Cháu chú Văn Thảo Nguyên

Ăn nói huyên thiên

Cháu chú Phạm Tiến Duật

Bài vè đó là cái mầm là bản nháp của một công việc anh theo đuổi mấy năm
sau. Sự tìm thấy mình có chút gì đó ngẫu nhiên, gặp đâu hay đấy – dẫu
sao còn hơn là cuộc đời qua đi mà không để lại dấu vết .

Những gương mặt khác nhau của một thế hệ

Trên biển lớn lênh đênh sóng nước

Ngoảnh đầu về xóm mới khuất xa

Cỏ non nay chắc đã già

Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem

Như Xuân Sách đã kể, bài thơ chân dung thực thụ đầu tiên là bài viết về
Hồ Phương. Nhà văn này là một thứ ngọn cờ trong văn học thời kỳ đầu
chiến tranh, một giá trị của thời chiến. Nhưng ngay lúc ấy, nhiều người
đã sớm nhận ra ở ông có sự phù phiếm của một người làm hàng. Đặt Hồ
Phương vào giữa các nhà văn cùng lứa, người ta đọc ra nỗi thất vọng đến
sớm của những người tưởng như thành đạt, song lại sớm rơi vào bế tắc, bế
tắc vô nghĩa ngay trong sự trơn tru thành đạt. Xuân Sách dựa chắc vào
những cái đó mà khái quát cái tình thế nghề nghiệp của cả một lớp người.

Chung quanh Hồ Phương có một chuyện vặt nữa mà cả cơ quan truyền tụng,
đó là thói quen làm việc vội vội vàng vàng băm băm bổ bổ (Vũ Cao cũng có
lần nói đùa là cái ông này sáng sáng vừa nhá bánh mì vừa viết lia
lịa!), làm lấy được, bất cần chất lượng. Người khác còn mất công đi lại,
Hồ Phương chỉ láng tráng vào B 5 gặp nhân vật một chút đã có ngay được
Kan Lịch, hoặc vào khoảng 1966-67 không cần ra đảo như Nguyễn Trọng
Oánh, Nguyễn Khải, chỉ nghe một cán bộ Cồn Cỏ là Trần Đăng Khoa kể lại,
mà cũng viết được một cuốn Chúng tôi chiến đấu ở Cồn Cỏ.

Chất hãnh tiến của Hồ Phương sẽ được Xuân Sách ghi lại trong một bài khác, anh không đưa vào tập

Thuyền đã ghé bến quen Cồn Cỏ

Nhằm quân thù anh nổ súng ran

Dưới cờ của Đảng vinh quang

Kan Lịch ơi hãy nhịp nhàng tiến lên

Tính tính tính tang tang tang tiền



(Nhằm thẳng quân thù mà bắn là tên một truyện ký của Hồ Phương viết về
Nguyễn Viết Xuân, còn Dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng là tên một hồi ký
của tướng Song Hào, Hồ Phương ghi )



Theo hướng này Xuân Sách đã viết hai bài về Hữu Mai, cũng là một thứ chân dung sắc sảo:

Hỏng đôi mắt đâu phải là mất hết

Khi trong lòng còn hồi ức Điện Biên

Có đồng đội anh sợ gì cái chết

Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên



Ơn Đảng Bác chắp cho đôi cánh

Phía trước là mặt trận rồi phải đánh

Dải đất hẹp này không một đứa ngóc đầu lên

Ôi những tháng năm không thể nào quên



Hai bài tập hợp gần hết tên các tác phẩm của Hữu Mai, và điều quan trọng
hơn là bắt được cái chất lý trí cả quyết đầy tham vọng của nhà văn này.
Đây là một điều không ai ở nhà 4 Lý Nam Đế lạ gì. Một mặt ai cũng chia
sẻ, ai cũng khâm phục -- nói cho cùng đây là đặc điểm chung của cả thế
hệ, chẳng qua đến Hữu Mai nó bộc lộ rõ hơn. Nhưng mặt khác nhiều người
cứ thoáng cảm thấy ngài ngại. Liệu cái đó có làm nên giá trị văn học bền
vững?!

Sau những bài viết về Hồ Phương và Hữu Mai, có vẻ như Xuân Sách đã tìm
được hướng đi và giọng điệu. Anh dần dần hướng tới những người khác.
Cùng với Nguyễn Khải Nguyễn Minh Châu, hàng ngày Xuân Sách đã theo dõi
hình ảnh các đồng nghiệp với một nụ cười kín đáo. Và sau nụ cười đó, có
cả sự cảm phục lẫn sự nghi ngại.

Đọc lại những đoạn “giáng bút” in trên Ngày nay 1940, người ta thấy Lê Ta và Tú Mỡ thường thất bại trong hai trường hợp :

Thứ nhất nhẹ tay với người nhà tức là các nhân vật Tự lực Văn đoàn.
Trong văn thơ châm biếm, đã nhẹ tay, đã hiền lành, thì bao giờ cũng khó
hay. Đây là những đoạn giáng bút làm nhàm, kém cỏi



Khái Hưng

Khá đem góp tiếng trên đầu

Ý mầu ai hiểu cơ mầu được đây

Hư không nào có ai hay

Ưng điêu chắp nối đổi thay khôn lường

Hoàng Đạo

Trong hàng lớn nhỏ từ xưa

Ra đời lại chọn đúng giờ xấu xa

Tinh khôn nay đổi lại giờ

Tâm tâm niệm niệm ấy là người hay

Cả hai đoạn này, chỉ dùng những biện pháp mang tính cách tiểu xảo, như
tả Khái Hưng, dùng lối chiết tự, ghép chữ, tả Hoàng Đạo, nhắc tới lý do
có liên quan đến hai bút danh Tứ Ly và Hoàng Đạo - nên cả hai đều lủng
củng, lại nhạt.

Thứ hai, ngược với sự nhạt là trường hợp những bài thơ mang tính cách tư
thù cá nhân xách mé thô lỗ. Khi tả về các nhân vật mà Tự lực Văn đoàn,
từng có lần va vấp... lời thơ Minh niên giáng bút có phần chớt nhả, và
đi gần tới xúc phạm.

Vũ Trọng Can

Gan to, gan nặng lạ lùng

Bởi vì trong óc hẳn không có gì

Thế mà cũng dám ti toe

Nói năng viết viếc để loè tài hoa.

Ngô Tất Tố

Gặp khi tắt lửa tối đèn

Mập mờ tài trắng hay đen hỡi tài

Vì ta phát giác ra ngoài

Mười năm hương lửa cũng hoài luống công

Ngọc Giao

Tên này mới quý làm sao

Còn văn thì chẳng bún nào mềm hơn

Tài năng nhũn nhẽo như lươn

Xui chàng yêu ả, chị hờn với anh.

...

Đọc những đoạn “giáng bút” này, người ta có thể hiểu tại sao đương thời,
Tự lực Văn đoàn bị một số người trong giới văn chương căm ghét: họ
không công bằng. Và đôi khi họ tỏ thái độ bề trên - là điều tối kỵ trong
quan hệ với các đồng nghiệp.

Xuân Sách cũng không xa lạ với vết xe đổ đó. Cái dễ dãi tầm thường thấy ở
nhiều nơi như trong chân dung Nguyễn Khải, còn phần chọc ghẹo lảm nhảm
xoa đầu đồng nghiệp thấy ở các bài viết về Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều,
Đỗ Chu...

Giữa Nguyễn Khải và Xuân Sách có một mối giao tình kỳ lạ.

Nguyễn Khải năm đó sau Tầm nhìn xa, Hãy đi xa hơn nữa, Họ sống và chiến
đấu trở thành cây bút số một của Văn Nghệ quân đội, tên tuổi nổi như
cồn. Uy danh biến thành chức vụ, trong khi những Hữu Mai Hồ Phương chỉ
là hội viên bình thường, ngay thành viên Ban chấp hành Hội nhà văn cũng
chưa phải, thì vừa bắt đầu chiến tranh Nguyễn Khải được bổ sung vào hạt
nhân lãnh đạo, tức thường vụ Ban chấp hành Hội.

Chỉ riêng điều đó đã khiến cho mọi người vừa chơi với Nguyễn Khải vừa
ngại. Trong sự bơ vơ của mình, Nguyễn Khải tìm thấy ở Xuân Sách một
người đối thoại lý tưởng.

Vốn thạo nghề, không phải Nguyễn Khải không biết thực chất những sáng
tác của Xuân Sách hồi ấy. Có lần tác giả Mùa lạc nói riêng với tôi :

--Những tay viết lầm lầm rồi lúc nào đó, nó sẽ lên, không chừng nó sẽ
thành nhà văn chân chính, như Xuân Thiều. Còn có những loại cứ bồng bênh
suốt đời, mà không làm được việc gì, như Xuân Sách, loại này không bao
giờ thành nhà văn cả.

Nhưng Nguyễn Khải là một tính cách rất mềm mại, ở chỗ bản thân không có
quyền lợi gì thì anh hiện ra rất đáng yêu, khen ai mà không làm mất ở
mình chút gì, thì anh hào phóng ra mặt. Đi với ai cũng hợp, đi với ai
anh cũng phát hiện ngay chỗ tương đồng giữa mình với người đó, dần dà
tìm ra cách để gần gũi và khai thác đối tượng, cốt sao có lợi cho việc
sáng tác.

Theo cách nghĩ này, nghĩa là với mục đích thực dụng, Nguyễn Khải xưa nay chưa hề ngán ai bao giờ cả.

Có cái may là về phần mình, trong khi cũng thông minh và thạo đời, Xuân
Sách lại chẳng bao giờ tính chuyện ngang hàng Nguyễn Khải. Mà còn cảm
thấy may mắn, mà còn tri ân, cả ở chỗ riêng tư lẫn trước mặt mọi người.
Chỉ riêng điều đó đã khiến tác giả Xung đột bằng lòng lắm rồi.

Bị ràng buộc bởi cái lệ “ làm đĩ chín phương cũng phải để một phương lấy chồng ”,
đoạn Xuân Sách viết về Nguyễn Khải không đạt tới một chân dung khái
quát. May lắm nó chỉ gợi ý cho thấy một khía cạnh của nhiều người viết
văn, là hùng hổ vậy, nhưng lại nhát và quá nhiều toan tính cá nhân khi
cầm bút.

Trong kho hàng của Xuân Sách có một loại riêng được truyền tụng rất
nhiều, là những chân dung Xuân Thiều, Nguyễn Minh Châu, Thu Bồn, Lê Lựu
….. Mỗi khi đọc lên, sự khoái khẩu tới với người ta, một sự khoái khẩu
kiểu truyện cười dân gian, rất dễ lây lan. Nhưng tôi không muốn chép lại
ở đây. Người được nói tới không thú vị gì mà người viết là Xuân Sách
thật ra cũng chỉ có cái thú tầm thường là được dịp tỏ ý khinh đời chế
nhạo được xoa đầu người khác.

Xoàng nhất trong loạt bài này là mấy câu viết về Nguyễn Minh Châu.

Ban đầu bài viết có giọng khinh mạn ra mặt Cửa
sông cất tiếng chào đời -- Đã ti toe những vùng trời khác nhau --/Dấu
chân người lính in mau --Thằng này không trước thì sau cũng tù.


Điều này liên quan đến thói ghen ăn tức ở mà người ta thấy không hiếm
trong giới và mặc dầu rất thông minh, Xuân Sách cũng không ra thoát.

Tài năng trong văn học là một khái niệm quá rộng. Bảo một người như Xuân
Sách không có tài cũng không phải. Trong Xuân Sách có chất gì đó của
những ông đồ tân thời, chữ Hán biết một ít, chữ tây biết một ít, văn học
cổ truyện nôm dân gian khá sành mà những tác phẩm chính của Tự lực văn
đoàn cũng đã đọc qua. Sự hiểu biết và chất lượng sáng tác của họ hợp với
những làng quê, những phố huyện, nó cũng là rất thích hợp cho yêu cầu
tuyên truyền của những năm tháng chiến tranh.

Nhưng so với cái mặt bằng của Văn nghệ quân đội những năm ấy thì Xuân Sách thuộc về một cái gì hơi thấp.

Một mặt chúng tôi biết rằng thứ sáng tác văn thơ của anh rất cần cho
báo. Nhưng mặt khác thì nhiều người vẫn cứ không bằng lòng, khi thấy ở
Xuân Sách chỉ là sự dễ dãi trong lao động nghệ thuật.

Người khó chịu nhất với cái phương diện này của Xuân Sách là Nguyễn Minh
Châu. Hai nhà văn vốn coi như cùng trang lứa. Cả hai cùng về cơ quan
sau lớp Hữu Mai Hồ Phương và cho tới đầu chiến tranh chưa có gì nổi bật
nên dễ hiẻu nhau. Mọi việc chỉ khác đi khi Nguyễn Minh Châu cho in Cửa
sông mà Xuân Sách thì chưa có cuốn nào ra hồn.

Kế đó, cuối 1967, họ cùng được cử đi chiến trường B5, đợt đánh Khe Sanh.
Trong lúc Nguyễn Minh Châu lẳng lặng viết yiêủ thuyết Dấu chân người
lính ( mãi đầu 1972 mới in xong và thành một cuốn loại trội nhất trong
số các tác phẩm viết về chiến tranh ), thì Xuân Sách chỉ có tập thơ
Trong lửa đạn, tập truyện Đêm ra trận, cả hai in ra ngay sau đợt đi và
sau này không ai còn nhớ tới chúng. Sự tách tốp bắt đầu từ đấy.

Không cần ở lâu lắm cũng có thể nhận ra sự đối lập giữa Nguyễn Minh Châu
và Xuân Sách. Một bên linh động sắc sảo trong văn mà ngoài đời lại khờ
khạo, vật vờ theo kiểu lên đồng. Một bên như ma xó chuyện gì cũng biết,
nhưng khi viết thì bao nhiêu thông minh lại biến đâu hết. Và trong cuộc
sống, nếu một bên lúc nào cũng đặt ra cho mình những mục đích cao để
vươn tới – giá có thất bại cũng vươn tới, thì một bên lại khôn ngoan
giấu đi cái kém, không bao giờ lố bịch cả, nhưng cũng không bao giờ gây
ra bất ngờ.

Cả hai những năm đó là một đối tượng để mọi người trong cơ quan bàn bạc.

Một lần Hữu Mai cười cười nói với tôi.

--Bây giờ Xuân Sách của các ông như con gà đẻ lang ấy, đẻ bụi đẻ bờ khắp cả mọi nơi.

Trong lời giễu của Hữu Mai có hàm cái ý chê Xuân Sách viết nhiều viết ẩu.

Nhiều người khác cũng nói vậy. Xuân Sách trở về thường xuyên trong câu
chuyện hàng ngày giữa tôi với Nguyễn Minh Châu. Từ Xuân Sách chúng tôi
nhận ra một kiểu người viết.

-- Nó là một kiểu văn tài đấy! Ban đầu tác giả Dấu chân người lính còn nói bằng một giọng dè dặt.

Rồi khi nghe tôi thắc mắc tỏ vẻ chưa chịu với lối nói lửng lơ lảng tránh
thì Nguyễn Minh Châu mới nói thật. Trường hợp Xuân Sách được anh đối
chiếu với quan niệm chung về người viết văn:

-- Người ta, nhất là người viết, có những mặt phải điếc đi một ít, thì
mới hòng viết được. Đằng này cái thằng Xuân Sách này cái gì cũng hay,
chuyện gì cũng thạo, gái cũng giỏi, chính trị cũng tinh vi, thế thì đầu
óc đâu mà viết nữa.

Vì đây chỉ là chuyện phiếm một loại trà dư tửu hậu, nên tôi tự cho phép
mình nghĩ gì nói nấy. Tôi nêu một nhận xét có phần vu vơ:

-- Nói chuyện với ông Sách, nhiều khi rất thích, nhưng nhiều khi rất
ngấy. Cứ như miếng thịt ôi, không biết dùng vào việc gì nữa.

-- Ừ có lý! Sách nó thông minh, nhưng là sự thông minh tiếp nhận, chứ không phải sự thông minh phát ra.

-- Nhiều khi đứng trước những chuyện lôi thôi, ông ấy tảng lờ như không
thèm để ý. Người ta khen thế là có bản lĩnh. Nhưng tôi thấy bản lĩnh một
người viết văn phải là cái phần này: cái phần hướng về phía trước.

- Có cái chết là tất cả cánh Văn nghệ quân đội bây giờ, cả ông Cao, ông Hoàng, ông Ngữ, đều là mắc chung cái bệnh như vậy cả.

Những lời đàm tiếu này, Xuân Sách biết hết. Và trong thâm tâm công nhận
nữa. Nhưng vẫn có gì ấm ức. Dù thừa hiểu vị trí của Nguyễn Minh Châu
trên văn đàn, nhưng vì tự ái nên vẫn không chịu nó bộc lộ thành những
dòng miêu tả Nguyễn Minh Châu như trên. Về sau đoạn viết về anh Châu mà
tôi dẫn ở trên có sửa lại, nhưng vẫn không hay.

Nếu những bài viết về Nguyễn Minh Châu hoặc Đỗ Chu cho thấy thơ chân
dung nhiều khi chỉ là một thứ đùa của Xuân Sách-- kể cả đùa nhả đùa nhảm
-- thì bên cạnh đấy, lại có những bài đầy tính chất chiêm nghiệm. Đó là
các bài về Thanh Tịnh, Chính Hữu, Phạm Tiến Duật.

Trong Thanh Tịnh, Xuân Sách bắt đầu chỉ ra nỗi buồn nói chung của kiếp người “ bao năm ngậm ngải tìm trầm-- Giã từ quê mẹ xa dòng Hương Giang…”

Hình ảnh Chính Hữu dưới mắt Xuân Sách, có cả hai bình diện, cái phần
tiềm năng trong con người và cái phần phôi pha trôi nổi theo cuộc đời.
Tiềm năng thứ nhất là là tài thơ. Nhưng lại còn tiềm năng thứ hai, đó là
thói quen sống và làm việc theo yêu cầu của xã hội, làm cả những việc
có vẻ mình không thích, nhưng vẫn rất mẫn cán rất kỹ càng, rồi trở thành
người phụ trách công tác văn nghệ một cách rất tự nhiên. Cả hai tiềm
năng đều ngang nhau, chứ không cái nào lớn hơn cái nào.

Bảo rằng với Chính Hữu, chiếc ghế quan trường giết chết thơ thực ra là
nói oan. Không làm quan thì Chính Hữu vẫn có lối viết gò thắt và dừng
lại ở một đời thơ mỏng mảnh cằn cỗi.

Song dẫu sao bài thơ cũng ghi được tình thế dở dang “ dở quan chức dở nghệ sĩ” của một số người cầm bút thời nay.

Từ bắt đầu chiến tranh, anh em ở Văn nghệ quân đội chúng tôi năm ấy đã
có dịp theo dõi quá trình đến với thơ của Phạm Tiến Duật, hiểu cả những
bước đi chập chững đầu tiên tới giai đoạn thơ một chặng đường đạt tới sự
công nhận của cả xã hội. Khi viết về Phạm Tiến Duật, Xuân Sách không
rơi vào bông phèng đuà bỡn mà có cái nhìn bao quát về mối quan hệ giữa
nhà thơ và thời đại, cụ thể là tác động của chiến tranh tới số phận
người viết văn. Người ta chỉ hay nói về chiến tranh như một hoàn cảnh
thuận lợi để các nhà văn lâp nghiệp. Xuân Sách nói ngược lại tức là nêu
cả mặt thuận lẫn mặt nghịch. “ Đời đã tưởng bay lên vầng trăng – Lại rơi xuống chiếc xe không kính – Ra thế giữa chiến trường – Nghe tiếng bom cũng mạnh..
Viết như thế vào lúc tên tuổi Phạm Tiên Duật đang lên như diều, là cả
một sự tiên tri, mà chỉ nhờ vào việc tiếp thu nhận xét của những Nguyễn
Khải Nguyễn Minh Châu, Xuân Sách mới đạt tới.

Thuộc loại hay nhất của thơ chân dung phải kể mấy câu Xuân Sách viết về
Nguyễn Ngọc Tấn. Những bi đát của cuộc đời. Cái bất lực của người cầm
bút. Bao nhiêu điều hàng ngày ai cũng nghĩ mà không ai nói ra thì Xuân
Sách đã nói

Trăng sáng riêng soi một mặt người

Mối tình đôi bạn cách phương trời

Ước mơ của đất, anh về đất

Im lặng mà không cứu nổi đời

Đặt mấy câu này bên cạnh các đoạn chân dung trên, tôi rút ra nhận xét
nhà văn VN hình như chỉ có hai khuôn mặt là bi thảm và hài hước, mà phần
nhiều bi đát ngay trong cái vẻ buồn cười của mình, còn số bi thảm thực
sự, bi kịch với nghĩa cao cả của khái niệm thì hơi ít.

Một bước tự nhận thức của cả giới cầm bút

Nếu qua mảng chân dung vừa dẫn ở trên, Xuân Sách chủ yếu làm nổi lên cái
nhiệt tình và liều lĩnh, tham vọng và thất thường, bền bỉ và hãnh tiến
của thế hệ cùng tuổi với mình thì đến lúc viết về lớp già tức các cây
bút đã trưởng thành từ trước 1945, anh lại cho thấy một xã hội dân sự
trong văn chương ở đó hiện ra đủ mọi mặt người, mọi kiểu tồn tại.

Ở đây chúng ta bắt gặp những nhân cách đa dạng và ổn định. Họ là Ngô Tất
Tố thấu hiểu đủ mọi chuyện làng chuyện nước. Là Nguyễn Công Hoan như
anh kép Tư Bền bới tung đống rác xưa và nay. Là Nam Cao tả sâu vào thời
mình mà là tả sự bất lực và chống đối tuyệt vọng của con người mọi thời
đại. Là Kim Lân “ Phận mình xấu xí cũng vì miếng ăn”

Mang lại cho Xuân Sách uy tín và được truyền tụng nhiều nhất là hai bài anh tả Hoài Thanh Chế Lan Viên.

Thời nào đến giờ, đám người hay chữ chỉ là đám quan chờ, thì sự nịnh nọt
có gì là lạ. Cũng như mọi sự tàn ác, trong nghề ghen tị chèn ép nhau,
bán đứng lẫn nhau ; cũng như thói chống đối vặt; cũng như lối vênh vang
làm dáng khoe mẽ mẹ hát con khen hay... người đời có cái gì thì người
cầm bút trong xã hội hiện đại có cả. Có điều, một thời gian dài chúng ta
lại cứ lờ đi coi như không có. Bởi vậy, những bài đánh vỗ mặt-- những
bài mang tính cách lật tẩy, dám nói to lên những điều mà người khác đã
nghĩ về các nhân vật kia, mà chưa có dịp nói -- như các bài tả Hoài
Thanh Chế Lan Viên nói trên, dễ được người ta kháo nhau truyền tay nhau
và xem như một phát hiện.

Thế nhưng nếu chỉ có thế thì các chân dung nhà văn của Xuân Sách dù có
sức lưu truyền mạnh tức thời cũng không thể có sức sống dai dẳng.

Tôi cho rằng trong một số trường hợp, người viết chân dung có chạm tới một cái gì sâu sắc hơn.

Ở trên tôi đã dẫn ra những bài hay nhất Xuân Sách viết về các đồng
nghiệp cùng cơ quan. Trong số này có một bài thường bị bỏ qua song tôi
lại thấy đáng để ý. Thơ
ông tang tính tang tình -- Cây đa bến nước mái đình vườn dâu -- Thân
ông mấy lượt lấm đầu -- Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.
Đáng
để ý vì tuy thất bại trong việc nói riêng về một người đấy ( người đó
không nổi, không đủ sức trở thành một điển hình để người ta nhớ ) nhưng
bài này lại phác ra một thứ chân dung nhóm. Tang tính tang tình , một tí
làng quê, một tí chinh chiến.... Những cái viết ra loanh quanh . Nhạt
nhẽo tầm thường mòn sáo. Nhiều người chúng tôi là thế .

Cách viết này – mà trước tiên là cách nhìn này --đến khi hướng tới các
nhà văn lứa trước và nói chung là các nhà văn “dân sự” mới thật phát huy
hiệu quả.

Nhiều người vào với nghề chỉ với một ít năng khiếu bước đầu , khi thứ
năng khiếu đó mòn cạn thì xảy ra bao bi hài kịch . Người ta có làm được
một cái gì đấy, nhưng còn lâu mới gọi là đến cái đich của mình “ Anh đã
đứng trước biển – Cù lao tràm kia rồi—Nhưng khoảng cách còn lại—Xa vời
lắm anh ơi . Nhiều người lúng túng như người đàn bà ngồi đan sợi dọc thì
rối sợi ngang thì trùng. Thậm chí đây đó có người khi rời bỏ cơ sở để
ăn lương ngồi viết thì “ hoá ra thằng ngẩn ngơ ‘ lúc nào không biết . Cứ thế mà cuộc sống mòn tiếp tục.

Nhìn chung lại trong cái thế giới phù phiếm này, thực ra bao của giả.
Cái chuyện lạc đường vào Hội nhà văn nào chỉ là số phận của riêng ai.
Người ta mất tăm sau những cuốn sách ngẫu nhiên ra đời Bốn mươi tuổi mới vào đời--/Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ--?Giữa hai trận tuyên ngu ngơ-- Trong lòng Hà Nội bây giờ ở đâu.

Nhưng ở đời mấy ai chịu công nhận là mình lạc đường , mình bất tài.
Người ta tiếp tục làm ra những thứ vô bổ và bằng lòng với mọi thứ danh
vị hão. Luôn luôn xuất hiện cả những kẻ “ nằm vạ ‘ trước cửa Hội lẫn
những kẻ kêu làng phá đám như Chí Phèo xưa. Có thể là anh không định
thế, tôi biết. Nhưng hoàn cảnh đã đẩy anh đến tình thế đó , xin anh ráng
chịu !

Đi đến cùng trong triết lý, nhiều lần Xuân Sách gọi ra sự vô nghĩa lý
của kiếp người cầm bút. Một cuộc đời hanh thông tròn trặn êm đẹp như đời
thơ Tế Hanh rút lại cũng là ngao ngán buồn phiền “ Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu – Tình còn dang dở tận Hàng Châu – Khúc ca mới hát sao buồn thế -- Hai nửa yêu thương một nửa sầu”

Gãy đứt nửa vời nó là cái gì đi xuống trong số phận nhiều người, để rồi quanh quẩn không thoát khỏi bơ vơ đơn độc. Đi bước nữa rồi đi bước nữa – Phấn son mưa nắng đã tàn phai—Cái kiếp đào chèo là vậy đó –Đêm tàn bạn cũ chẳng còn ai (bài về Nguyễn Thế Phương )

Oai hùng nào cũng có lúc chấm dứt, sự mở đường nào cũng có lúc dừng lại,
cuộc đời tự do nào rồi rút lại cũng là chết trong tù túng, đó là ý
nghĩa của bài về Thế Lữ : Với tiếng sáo Thiên Thai dìu dặt—Mở ra dòng Thơ mới cho đời—Bỏ rừng già về vườn Bách Thú – Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.

Đôi khi lại là những bâng khuâng trước một cái gì phôi pha theo thời gian và nỗi bơ vơ thường trực Ấy bức tranh quê đẹp một thời – Má hồng đến quá nửa pha phôi – Bên sông vải chín mùa tu hú—Khắc khoải kêu chi suốt môt đời ( bài về Anh Thơ)

Những bài viết về Thế Lữ, Tế Hanh, Anh Thơ...mở ra một khía cạnh mới của
Xuân Sách. Giai đoạn đầu khi viết về lớp người như mình, ở cùng cơ quan
với mình, Xuân Sách may lắm mới chỉ nói được con người của cái thời
chúng ta đang sống. Khi đi vào cả lớp nhà văn kỳ cựu bên Hội, Xuân Sách
đã chạm tới cả những vui buồn của bao kiếp người cầm bút.

Nhà văn là những con người người nhất với nghĩa cuộc đời thật mong manh và những mong mỏi bao giờ cũng nằm ngoài tầm tay với.

Có một câu hỏi tôi thường được nghe khi đọc các bài thơ chân dung văn nghệ sĩ bên Hội mà Xuân Sách đã viết:

--Tại sao chỉ ở 4 Lý Nam Đế mà Xuân Sách thạo chuyện bên 65 Nguyễn Du như vậy?

Để trả lời câu hỏi này chỉ có cách trở về với Nguyễn Khải. Cái cầu nối
đời sống anh em Văn nghệ quân đội lúc ấy với đời sống văn học bên Hội mà
Xuân Sách nói ở đây vẫn là Nguyễn Khải. Hồi ấy Nguyễn Khải ở khu tập
thể ngoài bãi Phúc Xá. Một hai lần trong một tuần, Nguyễn Khải đạp xe
xuống 65 Nguyễn Du và trên đường về nhà riêng, anh thường rẽ vào 4 Lý
Nam Đế để trò chuyện với chúng tôi. Về một buổi họp thường vụ, các thủ
lĩnh Hội bàn bạc ý kiến ra sao. Về một chuyến đi các địa phương cần hình
thành ngay. Về một đoàn nhà văn nước ngoài sắp vào … Và quan trọng nhất
Nguyễn Khải kể về những chỉ đạo của cấp trên với Hội, chỗ này khen chỗ
kia chê, chỗ đe nẹt chì chiết... cùng là cách tiếp nhận những chỉ thị ấy
của đám người cầm bút đương thời. Văn nghệ lạ lắm, văn nghệ chả là gì
cả nhưng trong chiến tranh đây lại là chỗ luôn luôn được quan tâm, bởi
hình như nó là cái mạch đập tinh thần của con người, nó là hàn thử biểu
của xã hội, và một khi là một người viết thời nay, người ta không được
bỏ qua điều gì cả.

Cái cách kể của Nguyễn Khải là cách nháp của một nhà văn sau khi đi thực
tế. Trong lời kể ấy, chân dung các nhà văn hiện lên rõ mồn một. Ông
Nguyễn Tuân vun quén quanh mình một huyền thoại. Ông Nguyễn Đình Thi
trong lúc chờ làm việc lớn, sống một cuộc đời công chức và ham chơi. Ông
Hoàng Trung Thông bắt đầu cảm thấy thế nào là bất lực nên hay say rượu.
Ông Tô Hoài lên rừng như một cách đi trốn, chân bước đi xa mà lòng để
cả ở Hà Nội … Bao giờ thì tính cách những người trong cuộc và nhất là sự
vận động của tính cách ấy cũng được Nguyễn Khải làm nổi.

Trong hồi ký Cát bụi chân ai,Tô Hoài từng tự nhủ văn nghệ nói là quan
trọng thế thôi, chứ thực ra là một cái gì có cũng được mà không cũng
được.

Tinh thần cái sinh hoạt bên Hội mà Nguyễn Khải kể với Xuân sách cũng là như vậy.

Mấy năm 1960-63 ít nhiều có tạo nên một không khí sáng tác hào hứng. Có
cảm tưởng là một không khí phục hưng của một thời thịnh trị. Thế nhưng
chiến tranh đã nhanh chóng kéo người ta trở lại với thực tế. Chiến tranh
cần tới sự có mặt của văn nghệ, đưa văn nghệ lên đỉnh cao, nhưng cũng
tiêu hủy sức lực của người ta một cách nhanh nhất, và sớm để lại một sự
thất vọng ngấm ngầm.

Tôi nhớ một kết luận mà Nguyễn Khải trở đi trở lại. Đằng sau lời kể về
một cảnh chợ chiều bao giờ cũng là một khái quát chung về thân phận, và
cái ám ảnh dai dẳng về thời gian trong số phận cá nhân: “Thế mà cả một
kiếp người đã đi qua! Sau này nhớ lại chỉ cần mấy chữ “ một thời chiến
tranh “, thế là xong!”

Thỉnh thoảng người ta cũng thoáng nhếch mép cười vì những nhố nhăng, nhưng sau tiếng cười là nỗi buồn thấm thía.

Ngay từ lúc ấy , cuộc chiến đã khiến người ta cảm thấy nó kéo quá dài.
Tưởng như không khía cạnh nào của giới văn nghệ lại không có dịp bộc
lộ...

Kẻ cầm bút ở ta thường bị lý tưởng hóa, tức gán cho vai trò ông thần ông
thánh. Việc này có giải phóng ở họ ít sức lực, nhưng tai hại ở chỗ làm
cho họ không còn là mình.Trong khi bị buộc phải đóng vai cao thượng,
nhiều người lái cuộc sống mình đi theo hướng giả tạo.

Cũng may mà đời sống hiện đại góp phần hóa giải cái huyền thoại đó. Bản thân giới nghệ sĩ có sự tỉnh táo trở lại.

Khoảng 1972 có một sinh hoạt khá thú vị bên Hội. Cấp trên định làm một
cuộc khen thưởng -- nối vào cái giải thưởng !954-55-- liền cho mọi người
ngồi tính với nhau xem trong 27 năm từ 1955 tới 1972, có ai nổi hơn cả
ai nổi lên hơn cả .

Nguyễn Khải về kể với tôi và tôi ghi lại trong sổ tay, cả về ý nghĩa của giải thưởng lẫn những đánh giá cụ thể :

*Không, phen này cũng là lúc để mình có thể học tập về lâu về dài được.
Không phải là chuyện đùa đâu. Người ta cũng có ý thức về công việc của
người ta lắm. Ví dụ như có tập văn xuôi của ông Quang Dũng chẳng hạn.
Phen này không biết chừng được giải đấy. Nhiều ông sách ra sách vào tới
tấp như ông Tô Hoài, bây giờ người ta đang lưỡng lự, chẳng biết chọn
quyển nào cả. Ông Hồ Phương, tổ trưởng tổ văn ư, - mo phú hết. Trong khi
đó, một cái thằng lơ láo ở đâu nó cắp chiếu đến, như Nguyễn Minh Châu,
thì hai quyển sách của nó lại cứ lù lù ra đấy, chẳng ai gạt được.

* Chính tôi nhiều lúc tôi còn "mặt trận" hơn ai hết. Chứ các ông ấy làm
việc đúng là các ông ngự sử! Nxb Văn học nó cậy nó là Nxb có uy tín
nhất, đưa ra một bản đề nghị. Nguyễn Huy Tưởng- Không, chỉ biểu dương
Sống mãi với thủ đô. Tô Hoài không, chỉ biểu dương Miền Tây. Nguyễn Đình
Thi chỉ có Vỡ bờ tập 1, mà cũng còn phân vân giữa giải thưởng và biểu
dương. Còn như Nguyễn Tuân: Sông Đà -- biểu dương.

- Nguyễn Tuân phải xem lại thế nào chứ? Tôi (Nguyễn Khải ) nói.

- Thế nào thì thế, cứ tưởng ở tác phẩm ông ấy cậy ông ấy là nhà văn lớn,
ông ấy mang cả sổ tay của ông ấy ra, văn chương toàn tài liệu nghe báo
cáo cả. Có phải là cứ thế mà thành văn chương đâu.

* Về Nguyễn Công Hoan, tôi đưa ra Hỗn canh Hỗn cư. Các ông ấy cười. Chỉ
viết tên Nguyễn Công Hoan, rồi để một dấu hỏi to tướng ở đấy, để cho ban
chung khảo. Phen này là bương hết. Hồ Phương Kan Lịch không, may ra cái
Cỏ non còn có tính chất văn học. Nguyễn Ngọc Tấn, những truyện ngắn
viết hồi ở ngoài này bỏ đi cả. Người chết, người đi chiến trường, những
cái ấy để ra ngoài hết. Đây chỉ xét về mặt văn học. Những truyện của ông
Tấn, toàn li - rích (trữ tình) , đứng sao được. Nguyễn Kiên, Trong làng
với Đồng tháng 5 ư, sổ tất. Bà Vũ Thị Thường còn giả hơn ông Nguyễn
Kiên nữa kia, nhưng là nhà văn nữ duy nhất được nói tới. Huy Cận có
quyển Đất nở hoa, nhưng chả ai biết nói thế nào thêm nữa, vì nó cũng chỉ
đến vậy mà thôi.

Mỗi nhà xuất bản giới thiệu một ít sách đến cho Ban giải thưởng. Hôm qua
đi họp, thì nhắc đến Nxb Lao động. Trước đây, ông Nguyên Hồng đã tuyên
bố: thôi, tôi là người phát thưởng cho những quyển về đề tài công nhân
đó, tôi đề nghị thôi thôi. Giờ thì càng đọc vào càng thấy ông ta có lý.

* Đúng là có nhiều mặt, các ông ấy cũng bạc nhược. Nhưng cũng có rất
nhiều mặt, các ông ấy cũng sáng suốt lắm nghĩa là ghê lắm chứ không vừa
đâu. Đây ông xem, như quyển Quang Dũng. Chính mồm ông Chế Lan Viên nói
ra với tôi, chứ không phải ai.

... Buồn cười, hôm nọ, có ông mới bảo: Bây giờ hỏi lại cấp trên xem có
phải là có thể đặt các quyển hồi ký ra ngoài không. Ông Chế Lan Viên cho
ngay một câu : Thôi, thôi, cái gì mà cấp trên đã nói rồi, thì ta cứ thế
mà làm. Đừng hỏi lại nữa. Hỏi lại, trên lại thay đổi ý kiến, có phải
mình phiền không. Mà ai bảo đảm rằng ý kiến không thay đổi?

.....

Không phải tất cả những đánh giá trên đây là đúng, tôi ghi lại ở đây chỉ
để nhấn mạnh trong hoàn cảnh trì trệ của hậu phương, người ta có dịp
tỉnh táo nhìn lại chính mình. Bề ngoài thất thường , khi bàn bạc về nhau
có cả sự đùa bỡn đưa nhau lên mây xanh và giáng nhau xuống bùn đen.
Nhưng đó chỉ là bên ngoài. Cuối cùng là hiểu nhau và hiểu chung về nghề.
Chỉ cái đó mới còn lại. Tìm tới một sự suy nghĩ đúng đắn về nghề cũng
như về mình là khao khát thường trực của những nghệ sĩ chân chính.

May mắn của Xuân Sách và của một người mới học nghề như tôi là mấy năm
ấy sớm tiếp nhận được sự tỉnh táo của cả những đầu óc thông minh nhất .
Nói quá lên một chút , Khi phác hoạ chân dung, Xuân Sách chỉ là công cụ
của lịch sử. Cái chính là lúc này trình độ tự ý thức của người cầm bút
đã tiếp thêm sức nghĩ cho những ai muốn nghĩ.

Người ta quan tâm đến thơ Xuân Sách cũng là do những lý do đó.

Sổ tay tôi khoảng 1972 còn ghi :

Tết, ngồi với ông Hoàng Trung Nho, Hân ( Phan Hồng Giang). Nhân có người
muốn dò thêm về lực lượng người viết ở 4 Lý Nam Đế, Nguyễn Khải tự
nhiên buột miệng kể ra việc Xuân Sách làm thơ chân dung. Đâu như ông
bảo: Không, bên tôi, người mà giỏi nhất phải là ông Xuân Sách. Đó mới là
người thông minh hơn hết thảy, chứ chúng tôi thì không phải đâu.

Và Nguyễn Khải đọc thơ chân dung.

Về sau Nguyễn Khải giải thích thêm: Mục đích của tôi là để cho họ ( dân
bên Hội ) biết mình không chỉ viết được nhiều, đi chiến trường giỏi, mà
còn cũng thông minh và đáo để nữa.

Giống như một thứ cò mồi, tôi – vẫn lời Khải -- phải lấy tôi nói trước.
Rồi đến ông Hồ Phương, ông Hữu Mai... Không chỉ nói người ngoài mà người
nhà với nhau cũng sâu cay ra trò, ngụ ý của tôi là vậy. Ông Tế Hanh,
ông Hoàng Trung Nho, rồi Phan Hồng Giang, Bùi Bình Thi nhộn nhạo cả
lên.Ví như về tác giả Xung kích,Vỡ bờ. Hân: Đúng chất ông này là bắng
nhắng, cái gì cũng dúng vào, mà chẳng làm gì giỏi. Bài về Nguyên Hồng: Con hồ già uống rượu giả vờ say
-- điểm huyệt rất trúng, sự giả vờ của ông già có tiếng là tâm huyết
cần được phơi bày cho mọi người biết. Về ông Chế Lan Viên thì chưa hay
lắm. Chưa nói được bản chất nói xuôi nói ngược thế nào cũng hay của ông
ấy.Về ông Huy Cận, cái vẻ thoả mãn thì không ai cãi hộ nổi rồi.



(Một dịp khác )Nxb Quân đội nhân dân họp mặt mời các nhà văn bên Hội
đến. Lại đọc. Tô Hoài “Xuân Sách không làm được về mình đâu. Mình cũng
hơi khó nắm đấy “.Nguyễn Khải : “Tôi chỉ xin đọc anh nghe câu đầu tiên-- Dế mèn lưu lạc mười năm.
Ông Tô Hoài giật mình ngay. Nguyễn Đình Thi lúc đầu có vẻ thạo nghề “Ờ
đọc xem, các nước người ta vãn có lối viết anecdot thế này. Đến khi nghe
đọc bài về mình xong lại nghiêm nét mặt “ Thơ này có lợi cho ai nhỉ “.

Về sau ông Thi vớt vát: “Chúng ta đều rất thông minh cả. Nhưng có thông
minh nhỏ, có thông minh lớn. Phải phấn đấu để có những thông minh lớn cơ
“.

Xuân Sách về kể: “Họ cũng phải thấy là cánh mình sống với nhau, cởi mở, có thể nói với nhau khá nhiều ý. Thế là được!”

Không phải để bảo mọi nhận xét trên đây đều đúng hết tôi muốn lưu ý
những chi tiết này, chỉ để thấy sở dĩ thơ Xuân Sách ra đời được vì nó
hình thành đúng vào lúc giới nhà văn có nhu cầu nhận thức về mình.

Chung quanh sự phản ứng trước thơ chân dung còn một việc nữa đáng nói.

Những người từng sống kỹ với đời sống văn học mấy năm 1992-1994 chắc nhớ
một điều là khi được in lại thành tập, tập sách độc đáo này của Xuân
Sách vấp ngay phải một luồng dư luận công kích ra mặt. Một số anh em
định làm đơn kiện tác giả vì đã xúc phạm họ . Chuyện từ đùa bỡn đã sang
nghiêm chỉnh .

Về sau khi sự việc đã qua, tôi ngồi thử phân tích thì thấy chính những
bài dở tức là những bài thuần tuý đùa bỡn lại làm hại ngòi bút nhà thơ
phúng thích. Trước các đồng nghiệp mà Xuân Sách coi là loàng xoàng, anh
tỏ ý coi thường ra mặt. Anh mang những chuyện lặt vặt của người ta ra để
nói. Bất kỳ một người bình thường nào đó đã không chịu được, nói chi là
những người đã thành danh như Xuân Thiều như Đỗ Chu...Xuân Sách lĩnh đủ
những sự căm ghét vì lý do đó.

Khi Xuân Sách có sự nhìn nhận nghiêm chỉnh thì lại khác. Như là trường hợp Xuân Diệu. Xuân Sách kể sau khi nghe mấy câu“Chao ôi ngói mới nhà không mới – Riêng còn chẳng có có chi chung
Xuân Diệu không phản ứng mà còn thú vị khen là người viết những dòng
này sẽ bất tử. Có thể tin được chi tiết đó vì trước hết tác giả Thơ thơ
là người từng trải. Việc trong giới xầm xì bàn về nhau, dãn đến loại thơ
như Xuân Sách với ông không lạ. Hơn thế nữa phải nhận ở chỗ riêng tư,
Xuân Diệu khá sòng phẳng. Ông hoàn toàn hiểu cái yếu của mình. Trong khi
tả cái thăng trầm biến đổi của ngòi bút từng viết Thơ thơ,Xuân Sách đã
đặt Xuân Diệu vào cái mạch lớn của cuộc đời . Tri kỷ là thế chứ còn gì
nữa , dù là chỉ tri kỷ trong một trường hợp duy nhất !

Trở lại với bài Hoài Thanh. Như đã nói ở trên chỉ thấy bài thơ nói về sự
xu nịnh là không đủ. Cảm tưởng về cái khả năng “ cận nhân tình’’ của
Xuân Sách là ở đoạn cuối Bình
thơ đến thuở bạc đầu –Vẫn không thể tất một câu nhân tình –giật mình
mình lại thương mình – tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan.
Giọng thơ buồn bã ở đây, cả cái đau xót, cả một thoáng hư vô “bóng hình cũng tan”
ở đây, cho thấy Xuân Sách với Hoài Thanh còn một sự kính trọng. Bởi
thấy bài thơ hé ra một thực tế : sau khi đóng trọn cái vai được giao,
Hoài Thanh còn một con người khác. Thấy thương mình và xót xa cho bao
kiếp người như mình và hiểu rằng bởi đã dấn sâu vào bùn lầy rồi, không
chừng mình chẳng còn gì Có cảm tưởng Xuân Sách từ mình mà suy ra người
khác, không chỉ viết về Hoài Thanh mà còn viết chung về những kiếp người
tha hoá.

Một trong những bài hay nhất có sức khái quát nhất là bài viết về Hoàng Trung Thông.

Đường chúng ta đi trong gió lửa

Còn ước mơ chi những cánh buồm

Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất

Bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm

Lần đầu nghe chính miệng Xuân Sách đọc bài này, tôi đã nghĩ nó sẽ sống
lâu lắm. Bởi tôi cảm nghe trong đó nhà thơ chỉ nhân cá nhân Hoàng Trung
Thông để nói về một lớp người làm văn nghệ đương thời. Quyết tâm ư, chí
khí ư, người ta rót vào tai nhau rằng chỉ cần có thế là trở thành bất tử
và quả thật sự quyết tâm ấy có mang lại một cái gì đó, mang lại những
tên tuổi và cả một thời văn nghệ. Nhưng thử tách ra, thử lùi lại thử đặt
mình vào toàn cảnh lịch sử, chúng ta thấy gì ? Chúng ta sẽ thấy cái còn
lại nhiều khi chỉ là bất lực thất bại.

Học theo cách làm của nước ngoài, gần đây đã có người đề nghị lúc nào đó
ở ta xã hội sẽ tính chuyện xây dựng hẳn một nghĩa tranh dành riêng cho
các nhà văn. Hẳn còn lâu cái đề nghị đó mới được thực hiện. Nhất là giá
có ai hỏi rằng chúng ta đã có đủ một lớp nhà văn cơ bản đáng quan tâm
như thế hay chưa thì tôi cũng sẽ không ngần ngại nói chưa.

Nhưng giả sử có một nghĩa trang như thế, tôi muốn đề nghị mang mấy câu Xuân Sách viết về Hoàng Trung Thông ra đặt ở ngoài cổng.

Được đặt một hai dòng chữ của mình ở những nơi danh thắng những địa điểm
lịch sử là vinh dự mà người xưa nào ở phương Đông cũng mong mỏi. Tôi
nghĩ rằng Xuân Sách thừa biết điều đó, nên với đề nghị của tôi chắc ở
dưới suối vàng anh không phản đối.



Sự hình thành một huyền thoại mới

Từ quá trình sáng tác của Xuân Sách, tôi đã thử liên hệ với đời sống văn
nghệ, những mẫu người viết một thời. Nhưng bản thân số phận người viết
Xuân Sách cũng là một nhân vật mà tôi muốn kể tiếp. Sau đây là một ít
chuyện vặt và những suy nghĩ rút ra từ đó.

Ngoài thơ tứ tuyệt các nhà văn cũng thường cũng “chơi nhau” bằng câu đối.

Về Tú Mỡ và Khái Hưng

--Dưới bóng tre xanh Tú Mỡ buông câu dòng nước ngược

Dọc đường gió bụi Khái Hưng đứng bán gánh hàng hoa

Về Vân Đài và Đoàn Phú Tứ

--Thanh lịch Vân Đài, thanh lịch.. kịch

Ngã ba Phú Tứ, ngã ba.. hoa

Về Thanh Tịnh

-- Thanh thanh thanh, thanh tú thanh giường thanh thiếu nữ

Tịnh tịnh tịnh, tịnh sừng tịnh mỏ tịnh nam mô

Và về Xuân Sách

-- Xuân đâu nữa 40, con 3 đứa, sao 3 ngôi, khôn dại dại khôn, khôn cũng nó, dại cũng nó

-Sách gì cũng năm bảy, thơ một thể, văn một thể, đức tài tài đức, tài nơi mình, đức nơi mình

Đôi câu đối này Xuân Thiều làm năm 1972. Nó đã phác ra đầy đủ con người
gia cảnh tác giả thơ chân dung. Sao ba ngôi chỉ quân hàm thượng úy mà
Xuân Sách mang trên vai ( Hữu Mai Hồ Phương lúc này đã đeo quân hàm
thiếu tá ). Và tên ba đứa con chính là những chữ làm nên bút danh Lê
Hoài Đăng.

Từ Xuân Sách lúc này có thể nhận ra dấu ấn một nếp sống thời chiến ổn
định ở hậu phương Hà Nội trước 1975. Ổn định hay trì trệ thì cũng vậy.
Trừ bom đạn , một chiến trường ở xa và những người đi người về , còn tất
cả như đứng nguyên , năm nay giống năm ngoái. Sự trì trệ này là bao
trùm nên tự nhiên là đi từ đời sống sang sáng tác. Những tờ báo ra những
số giống nhau, bài vở na ná như nhau. Những nhà văn hàng đầu cũng thấy
bí, lặp lại mình, chán mình. Chỉ có các cây bút công chức là thấy hợp.
Chất công chức trong Xuân Sách cũng được dịp “phát huy’. Các nhà xuất
bản cần những cuốn sách tả chiến trường cho đèm đẹp một chút ? Thì , như
trên đã kể, Xuân Sách có tập truỵện Đêm ra trận tập thơ Trong lửa đạn.
Phong trào văn học cần những tác phẩm viết cho thiếu nhi, nhất là cái
phần tham gia chiến tranh của thiếu nhi? Thì Xuân Sách có Đội du kích
thiếu niên Đình Bảng, Mặt trời quê hương...Tôi xin phép không kể ra đây
hết mọi sự trung bình thấp lè tè dang dở... của nhiều tác phẩm đương
thời. Nhưng làm thế nào được, cùng đường rồi hết cách rồi. Sự đầu hàng
cam chịu bao gồm cả cách nghĩ. Một cách rất bản năng Xuân Sách đã tìm ra
cho mình cách tồn tại lý tưởng . Một mặt anh thừa hiểu những cái mình
viết ra chả là gì cả ( anh viết rất vội, chỉ cốt được in, chứ không gửi
gắm tâm huyết gì ). Mặt khác anh vẫn không giấu được một nỗi vênh vang
ngấm ngầm. Ta đã có sách in, ta cũng chả kém gì đời. Sự trâng tráo , giá
anh thấy ở ai sẽ cười giễu ngay, thì lại trở thành cách xử thế chủ yếu
của anh. Dường như sau trang viết của Xuân Sách lúc này là cái cười
khẩy, giữa sự dày công lao tâm khổ tứ của các anh với sự phẩy tay viết
xong của tôi, thua đươc có là bao?

Chạm mặt nhau trong cơ quan, mấy năm ấy, tôi luôn luôn bắt gặp một Xuân
Sách lưỡng phân. Lúc là người nhũn nhặn biết điều, lam lũ làm ăn ; lúc
khác là kẻ ra cái điều hơn người, kiêu ngạo vô lối. Lúc cam chịu nhẫn
nhục, lúc lại lồng lộn như con ngựa bất kham. Vừa đục nước béo cò tranh
thủ làm ăn kiếm chác, vừa ngả sang hư vô thấy mọi thứ hão huyền. Và anh
lại muốn xoa đầu thiên hạ , muốn cười thầm, muốn lắc đầu làm một cái án
tử hình cho những kẻ gặp thời kẻ quá may mắn, muốn có một quân tẩy xóa
bỏ tất cả.

Trong số những ấn tượng lớn nhất về Xuân Sách tôi nhớ tới cái bĩu môi
khinh đời của anh khi nghe những bản báo cáo về công trạng sáng tạo và
phẩm cách của đám người làm nghề. Anh nắm bắt rất nhanh cái hãnh tiến ở
người này, cái lặng lẽ sung sướng đếm tiền của người kia. Mọi thành tựu
dưới mắt anh như đều hiện ra với cái vẻ vô nghĩa của nó. Cuối năm 1973,
nhân dịp tổ sáng tác của Hồ Phương tổng kết, Xuân Sách cũng ném ra cách
tổng kết của mình

Tổ sáng tác, tổ sáng tác

Tác phẩm ùn ra như đống rác

Dấu chân người lính chửa in xong

Đã viết Ký sự hai bờ đác

Ông chủ tịch huyện cưỡi xe tăng

Thằng nào không tránh thì mất xác

Tôi ngẩng mặt lên nhìn Vùng trời

Mây trắng xếp đầy như xếp bạc

Một mình anh hùng Lê Mã Lương

Đánh cho lữ dù 3 tan tác

Thôi đành trở lại Thôn ven đường

Kiếm lấy cái gì mà gỡ gạc

Con gà động ổ nhà bên

Cục, cục tác, cục cục tác.



Trong tiếng Việt có một từ gọi là khôn. Người khôn thông thường được
hiểu không phải là người uyên bác về kiến thức hoặc giỏi giang về nghề
nghiệp mà chủ yếu là người giỏi thích ứng, trong phạm vi hạn hẹp của tài
năng và trình độ của mình vẫn biết cách kiếm lợi cho bản thân làm nổi
bản thân khiến người ta phải chấp nhận, lắm khi không yêu không phục
nhưng cũng phải chấp nhận.

Làm sao mà một người sáng tác không có gì đặc biệt như Xuân Sách tạo
đươc một ấn tượng khiến người ta luôn phải nhắc đến anh – đấy là cái
khôn của anh.

Nguyễn Minh Châu ví von: Xuân Sách lúc này như chất dầu nhờn chỗ nào cũng chảy vào được, đâu cũng có mặt.

Mặc! Xuân Sách vẫn sống và viết một cách kiên trì với những lý lẽ riêng của mình. Có lần anh nói với Nguyễn Minh Châu:

-- Anh đừng vênh mặt với chúng tôi! Tại trời cho anh nhiều hơn chúng tôi
chứ đâu anh có cần cố gắng! Vậy thì với tư cách nhà văn, lẽ ra anh phải
thông cảm với đám chúng sinh bất hạnh mới phải! Cũng nên sớm học tập
cách kính trọng bọn không nổi tiếng đi thì vừa. Vì trong cái bọn không
nổi tiếng ấy, khối tay, về mặt thông minh và bản lĩnh, nó còn bằng mấy
anh đấy!

Dường như Xuân Sách không chỉ nói với thiên hạ mà thường xuyên nói với
chính mình như vậy. Sự tự tin làm cho anh đứng vững, lại cũng là nhân tố
khiến anh tìm cách huy động hết vốn liếng của mình cho cuộc chơi. Một
lần nào đó anh bảo tôi:

-- Ông xem còn cửa nào mà tôi không thử vào không?

Nghe mà sững sờ! Trong khi tưởng là dong chơi Xuân Sách vẫn lẩn mẩn làm
cuộc phiêu lưu nho nhỏ. Ở những khu vực người khác bỏ qua anh lại gặt
hái được một ít thành tựu. Trên tinh thần tự khẳng định như vậy, Xuân
Sách có lần khắc họa chân dung mình một cách phô trương

- Cô giáo làng tôi đẻ sòn sòn

Một đêm ra trận được nghìn con

Thiếu nhi Đình Bảng nô ầm ĩ

Du kích Bạch Đằng hát véo von

Đường ra mặt trận chân chẳng mỏi

Lối vào lửa đạn bước không mòn

Mặt trời rạng rỡ quê hương mới

Vang khắp xa gần một tiếng khôn

Còn nhớ khi lần đầu nghe đọc bài này, Nguyễn Minh Châu cho luôn một chùy
“Như là một bản báo công ấy “. Nguyễn Khải thì nhân đó nói chung về cả
con người bạn mình : “Thế mà cũng đòi khôn!”

Dường như thấy tự khen như thế quá lố, nên Xuân Sách có chữa như sau

Cô giáo làng tôi đã chết rồi

Một đêm ra trận đất bom vùi

Xót xa Đình Bảng người chồng goá

Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi

Đường ra mặt trận gân cốt rão

Lối vào lửa đạn tóc da mồi

Mặt trời ảm đạm quê hương cũ

Khôn dại trần gian để tiếng cười

(tôi ghi theo bản chép trong sổ, so với bản in sau này câu cuối có khác. Câu cuối về sau là Ở một cung đường rách tả tơi )

Chê thì có chê, tuy nhiên âm điệu chủ yếu vẫn là khoe, khoe một cách kín
đáo.Dao sắc không gọt được chuôi—người ta lại chỉ có thể kêu lên như
vậy.



Tận hưởng lộc trời

Tuy chỉ in ra có một lần, nhưng thơ chân dung thực sự tồn tại theo lối
truyền khẩu. Mà khi truyền khẩu thì nó trở nên một thứ tập mờ không có
hình thù rõ rệt, bị giải thích tuỳ tiện, có lúc trở thành một thứ bí
truyền, khiến người ta vừa đọc vừa giải đoán. Chẳng hạn đây là những lời
ca tụng thơ chân dung. “Hình như trong đó sừng sững đến cả trăm gương
mặt. Tập thơ đặc tả những gương mặt quen thuộc, nhàu nát như thể sách
giáo khoa. Những thế hệ bầy đàn như chúng tôi chính là đã lớn lên trong
cái vầng hào quang giáo khoa chói lọi ấy”.

Nên nhớ là Xuân Sách làm tập này ban đầu chỉ để đùa, chả có lớp lang quy
hoạch gì. Có một vài bài làm chỉ để lấp chỗ trống. Có bài làm theo đơn
đặt hàng,. Một nhà văn thấy phải có mặt trong tập thơ này của Xuân Sách
thì mới nên người nên chèo kéo ông mời mọc ông, rồi thì Xuân Sách cũng
chiều đời mà làm thôi chứ chả hề mang vào đấy chút chủ kiến nào cả.

Còn về nghệ thuật loạt thơ cũng trong tình trạng xôi đỗ, bài hay bài dở,
khá nhiều bài chặt chẽ ( nhất là mấy bài làm theo thể tứ tuyệt ) nhưng
nhiều hơn là những bài vần điệu xộc xệch, tác giả viết vội viết vàng cho
qua, và trong khi thưởng thức người ta chỉ mải để ý xem nó dùng để chơi
xỏ ai, ra đòn có ác không, chứ không đếm xỉa tới nghệ thuật.

Song khi đã mê rồi còn ai tỉnh nữa. Hơn nữa từ yêu thơ, người ta chuyển
sang yêu người, cái bước đi phi lô-gich ấy đã đến với cuộc đời bao
người, lại đến với Xuân Sách.

Từ sau 1980, cuộc sống trong nghề của anh có bước rẽ ngoặt. Không chỉ
chuyển về các cơ quan văn nghệ dân sự, mà cái chính là từ nay anh trở
thành một bộ phận của sinh hoạt văn học ở cả bề nổi cũng như bề chìm của
nó. Trong giới, cái tên Xuân Sách nổi lên như một người thạo đời thạo
việc. Khoảng 1989-90, Dương Thu Hương còn sinh hoạt với Hội nhà văn, và
nhiều lần được nhăm nhe vào chấp hành hội. Trước Đại hội nhà văn cuối
1989, Dương Thu Hương nói với nhiều người:

-- Tôi mà trúng vào Ban chấp hành thì thả nào tôi xin Đại hội để nhường
cho Xuân Sách. Dương Thu Hương tin khả năng ứng phó và hiểu nghề, hiểu
giới viết văn của Xuân Sách sẽ giúp cho việc điều hành hoạt động của
Hội.

Ngoài những người bạn cũ, bắt đầu có bao nhiêu người viết khác, chỉ đọc
chân dung mà cảm thấy Xuân sách như người quen của mình. Các đám nhậu
trở nên sang trọng hơn nếu mời được Xuân Sách đến dự. Người ta chẳng
những thấy đây là một tác giả sành sỏi thạo đời mà còn tin chắc rằng anh
là một người một người viết có bao điều chưa bộc lộ, có cái bề sâu thăm
thẳm chưa kịp nói ra. Cơn sóng ngấm ngầm sùng bái đã đẩy tác giả của
những bài thơ đùa bỡn này lên thành một bậc trí giả, một cây bút uyên
bác thông kim bác cổ. Cách nghĩ thâm thúy của người Tàu được vận dụng để
cắt nghĩa. Trong số các danh hiệu được đặt bên cạnh anh có những chữ
thuộc loại thiêng liêng nhất mà dưới áp lực của văn hóa Trung Hoa, mọi
người đều dùng một cách tự nguyện. Nào một ẩn sĩ cô đơn, một nhân giả,
một chân kẻ sĩ, một cây cổ thụ. Có mặt trong một bữa rượu, anh được mô
tả “có cái gì giống Khuất Nguyên ngày trước. Cả cuộc đời say, đủ các
kiểu say, chỉ có mình ông tỉnh...” “ Ông chính là người mà thời gian đã
kịp “nấu” thành... cao, một thứ “cao” giống như cao hổ cốt.”

Dễ dàng đoán ra tâm trạng nao đã khiến người ta có sự qúa đáng trong
những lời khen tặng như vậy. Ngoài đời nhiều giá trị giả quá, mà không
ai phá tung ra được, nên thấy ở Xuân Sách có chút gì thực, là người ta
khen không tiếc lời. Xã hôi tốt xấu nhập nhèm, mà tìm trong dư luận công
khai chẳng thấy gì nên người ta mù quáng tin vào những lời đồn thổi. Xã
hội quá nhiều người sống cứ nhô ra, làm nổi mình lên, nên thấy ai có vẻ
bình lặng một chút, người ta gán cho đủ thứ phẩm chất.

Câu thơ Xuân Sách viết về Chính Hữu Anh thành đồng chí tự bao giờ ? lúc này có thể đổi thành anh thành huyền thoại tự bao giờ.

Và tôi hiểu rằng, khốn khổ, Xuân Sách cũng tham gia vào cái việc tạo ra
huyền thoại cho chính mình. Anh muốn bù lại những năm bị thiệt thòi, bị
quên lãng.

Ở các làng xóm xưa có những nho sĩ chuyên làm vè. Cái gì họ cũng biết
một tí. Về kiến thức, chân trời của họ là những cuốn sử sách và triết lý
bên Tàu Nhưng cái chân trời ấy xa quá thăm thẳm nên khi đến với mỗi
người thì nó chỉ còn là những mảnh tan nát rời vụn mỗi người nhặt một
mảnh mỗi kiểu. Xuân Sách cũng không ra thoát khỏi tình trạng chung.
Nhưng như thế kể đã đủ lắm.

Ngoàì một chút “thâm như người Tàu” , loại trí thức nông thôn mà Xuân
Sách đại diện lại còn chỗ mạnh của người trí thức bình dân . Lơ lửng
sống giữa nông thôn, họ như ma xó, tức là không cần đi đâu mà chuyện gì
trong cái “ hương đảng tiểu triều đình” cũng không qua khỏi mắt. Tầm
hiểu biết của họ bao quát từ những vụ việc bê bối trong làng xóm tới các
kiểu tính cách con người, những mối quan hệ lằng nhằng phức tạp. Với
năng khiếu thiên về phúng thích (==châm biếm mỉa mai), những người làm
vè nhậy với những gì cũ càng, héo hon, tan nát. Vượt quá lên nữa, đôi
khi họ chạm tới cả sự vô nghĩa của kiếp người lẫn sự bất lực của cái cao
sang cái tốt đẹp.

Xuân Sách là một con người như thế còn sót lại. Xuân Sách mang cái nếp
nghĩ ấy nghĩ về làng văn. Ta biết rằng cuối đời Xuân Sách dặn người thân
khi chết đưa mình về làng. Tôi nhìn nhận việc này như một lời thú nhận.
Người ấy biết thân biết phận .

Sáng tác của Xuân Sách từ 1980 cũng theo đà này mà thay đổi về sau cũng đậm hơn sắc thái nhân văn

Làm vua mà cũng chán -- Bỏ đi theo mây ngàn -- Một nước cờ Yên Tử --Làm bận lòng thế gian ( bài Yên Tử )

Đừng rót nữa tôi không
sành rượu -- Uống không say thì uống làm gì -- Vui chẳng thêm, buồn
không quên được-- Cứ như thừa từ cái mặt thừa đi -- Cứ như thừa trong
cõi đời náo nhiệt -- Hay hớm gì nhìn gan ruột người ta -- Giữa thời buổi
cạnh tranh quyết liệt-- Cứ tỉnh quoeo lắm lúc cũng phiền hà...
( bài Rượu).

Tôi về
tới bến sông xưa--/ Hút tàn điếu thuốc mà chưa gọi đò-- Nhìn theo ngọn
khói vu vơ-- Nhớ thương thì có đợi chờ thì không -- Buồn ai thả lại giữa
dòng-- Cho tôi mang lấy nặng lòng chiều nay-- Hư hao một thoáng heo
may-- Sương nhòa mặt đất mây bay cuối trời-- Cất lên một tiếng đò ơ--
Nhỏ nhoi như giọt mưa rơi giữa đồng.
( bài Bến quê).

Trong các hồi ức có liên quan tới nhà số 4 Lý Nam Đế, tôi đã kể những
buổi họp mặt ngẫu nhiên ở đó các nhà văn chúng tôi sống thật cuộc sống
của mình. “ Giao ban “ với nhau về những tin tức mới thu thập được. Đọc
được cái gì hay kể lại. Có chuyện gì bực bội kể lại . Bao nhiêu những
tình cảm suy nghĩ mà mỗi người vừa trải nghiệm có dịp bộc lộ. Thành thử ở
đó mỗi nhà văn cũng có dịp hiện ra với tính cách có thật của mình. Hữu
Mai với bộ dạng kín kín hở hở muốn chứng minh rằng mình quen biết nhiều
vị cấp trên, được dự vào nhiều việc quan trọng. Xuân Thiều còn nhiều
chất của người cán bộ cơ sở, thực thà đơn giản, trong khi Hải Hồ ranh
vặt, Nhị Ca hư vô, Mai Ngữ chẳng còn tin ở việc gì tử tế trên
đời...Trong số này tôi nhớ hơn cả là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu.
Người thứ nhất sôi nổi hào hứng không chỉ từng trải sự đời mà còn giỏi
bình luận biết chớp ngay được những chi tiết người khác vừa kể biến ngay
thành tài liệu riêng, và điều quan trọng hơn là cái gì cũng chấp nhận
chuyện gì cũng thấy có lý. Còn người thứ hai bề ngoài như một người
thừa, thỉnh thoảng chêm vào một câu chẳng đâu vào đâu hoặc nhếch mép
cười một mình, song thật ra ngấm ngầm thu góp tất cả, để rồi mai kia
trong buổi nói chuyện riêng sẽ thủ thỉ với tôi về những chiêm nghiệm và
sau cùng đưa những gì tâm huyết vào trang sách.

Người thứ ba tôi phải nhớ là Xuân Sách. Anh có cả đặc điểm của hai người
trên. Với sự thông minh hiếm có, gần như chuyện gì anh cũng có thể tham
gia được, chuyện bên ta hay bên Tàu cũng chen vào được. Cũng có lúc
chẳng qua là nói vuốt đuôi nhạt nhẽo, song có khi lại là sự tiên cảm sâu
sắc kỳ lạ. Ngay hồi ấy, tức là giữa lúc cách mạng văn hoá bên Trung Hoa
bộc lộ tính cách cực đoan kỳ dị của nó, Xuân Sách có lúc đã dự đoán
đúng. Anh bảo không chừng thứ tai hoạ này lại là một lời cảnh tỉnh, sau
cơn dằn vặt này xã hội Trung Hoa sẽ trưởng thành vượt bậc. Đây là kết
quả của một đầu óc có nhặt được ít mảnh vụn lấy từ những Đông Chu Chiến
quốc sách, Tam quốc, Thuỷ hử. Còn cách bộc lộ của Xuân Sách thì đại khái
thường gồm mấy bước thế này. Thoạt đầu, giữa đám đông anh cũng chỉ dửng
dưng lơ láo như một người thừa. Làm sao mà thi thố tài năng được với
những cái mồm lợi hại khác? Vả chăng còn để mọi người có ngón gì trổ hết
ra đã chứ. Rồi cái gì phải đến sẽ đến. Khi câu chuyện đã tàn, phần lớn
mọi người ra về cả, anh thường còn cùng một vài người khác nán lại tiêu
hoá câu chuyện. Và Xuân Sách là người tiêu hoá nhanh nhất , có cách giải
thích độc đáo nhất khiến những ai kiên trì ở lại cùng anh sẽ không mấy
khi phải hối hận. Mà về cách biểu hiện, đã bốc lên thì Xuân Sách của
chúng tôi cũng bồng bột lắm. Cũng có lúc anh đỏ mặt tía tai như cãi nhau
với ai đó. Lại cũng có lúc đang ngồi anh phải đứng lên vung chân múa
tay như đang diễn thuyết trước đám đông , và diễn xong lăn ra cười, tự
mình thưởng thức cái sự bình luận sâu sắc của mình.

Tôi nghĩ sự có mặt của Xuân Sách, cái vai Xuân Sách đóng trong những
buổi nói chuyện trên đây cũng mang bóng dáng cách tồn tại của Xuân Sách
nói chung. Những vần thơ chân dung của anh, sự có mặt của anh trong giới
văn nghệ mà trên đây tôi thử miêu tả nuôi trong đầu óc tôi một cảm
tưởng về sự đa dạng của tài năng trong giới văn nghệ , nhất là văn nghệ
trong hoàn cảnh của Hà Nội lúc đó. Miễn làm sao mỗi chúng ta tìm được
cái vai của mình, thứ đặc sản của mình, thì rồi không bao giờ thiệt,
thiên hạ sẽ biết hết, cuộc đời này công bằng trong cái lý lớn lao của
nó.




Tên cũ

Đã in trong Phê bình và tiểu luận,2009







      

Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét