Chuyện lan man từ những chiếc xe gắn máy




Có những
lúc trong đầu óc người ta nảy sinh ra một vài ý nghĩ hoang dại chính mình cũng
không ngờ, lại thấy như là kỳ cục, không hiểu sao nó lại tìm tới mình để rồi
mọc rễ trong đầu, muốn gạt đi cũng không nổi.



Thuộc loại cái “ý nghĩ khi khỉ” đó - chữ của Nguyễn Công Hoan - xuất hiện nơi
đầu óc tôi ngay trong những năm chiến tranh là một chút khó chịu với chiếc xe
đạp.

Hồi đó Hà Nội nghèo lắm, nhìn ra đường chỉ thấy xe đạp, và cái món “tự hành xa”
này lúc đó cũng còn ít, mỗi con phố hẹp Hà Nội lưa thưa vài chiếc.






Với những thanh niên mới vào đời như một số bạn bè tôi lúc đó, việc mua được
một chiếc xe là một sự kiện lớn. Tôi như biết bay trên con ngựa sắt của mình.



Vậy mà đôi lúc, tự nhiên thấy nó kỳ cục, ý tưởng sao mà lạ vậy...



Cho đến lần tôi được đọc truyện ngắn Người
trong bao
của nhà văn Nga A.Tchekhov. Trong truyện có cái cảnh hai người
giáo viên, một nam một nữ, mặt đỏ gay, cưỡi xe đạp phóng qua một ngọn đồi vùng
quê, lại còn trò chuyện với nhau ầm ĩ. Trong con mắt nhân vật chính Belikov,
cái cảnh ấy kỳ quái tới mức không thể tưởng tượng nổi. Hắn bảo với một người
khác: “Cái gì lạ thế? Hay là tôi lóa mắt? Chẳng lẽ giáo viên trung học và đàn
bà con gái lại có thể cưỡi xe đạp sao tiện?”.



À ra thế, không phải riêng mình mà hóa ra nhiều người đã thấy buồn cười khi
nhìn vào một xã hội mỗi người nhông nhông một chiếc xe đạp, tôi tự nhủ. Chẳng
qua không còn có cách nào nên đành chịu vậy!



Thì bây giờ lại đến xe gắn máy!



Vài chục năm gần đây, cái phương tiện này đã dính vào con người xứ mình. Sự có
mặt của nó gây nên một khí hậu sống. Có lúc tôi muốn gọi nước mình là “xe máy
quốc”.



Nhìn vào nhiều gia đình Hà Nội thấy nó chình ình ngay đầu giường. Mở mắt ra là
thấy có tiếng xe gắn máy rú ga trong ngõ. Mỗi buổi sớm có dịp nhìn lên cầu
Chương Dương, tôi phát ngán vì lớp lớp xe gắn máy ken đặc và khói xả khét lẹt.



Và đáng sợ nhất là những nét mặt người ngồi trên xe, người nào mặt mũi cũng hằm
hằm khó chịu, con mắt chăm chăm tìm chỗ hở để luồn lách đi tới.



Nhiều lần chứng kiến một đám thanh niên châu đầu xe gắn máy tán chuyện giữa
đường, tôi cảm thấy như các chiến binh thời xưa mỗi người một ngựa sẵn sàng ra
roi phi thẳng vào vùng chiến địa.



Ngồi lên xe là tự nhiên cái ngông nghênh trong con người mình nổi dậy, muốn
vượt lên thật nhanh, muốn cả thiên hạ phải nhìn theo khâm phục. Khoái lắm chứ!



Một thanh niên đã giải thích cho tôi như vậy. Nó là tâm sự của cả mấy thế hệ từ
chỗ chỉ có cái xe đạp kẽo kẹt, nay có trong tay một phương tiện cơ giới sản
xuất từ các nước phát triển.





 Ta có ảo tưởng là ta đã trở thành con người
hiện đại.

Có biết đâu tình trạng cả triệu chiếc xe cùng rồ máy bóp còi chen lấn chỉ tố
cáo một tình trạng xã hội cổ lỗ, manh mún, mới dừng lại nửa vời trên đường trở
thành xã hội hiện đại.



Những ngày Hà Nội mưa dầm rả rích, trời đất tôi tối mờ mờ, từ sở trở về, nhìn
hàng xe ken chặt các con phố hẹp trong tiếng loa phường văng vẳng, người hay
mủi lòng cảm thấy một không khí thực sự trung cổ.



Thêm một chuyện nữa khiến tôi càng không dứt bỏ nổi sự khó chịu nói trên. Mấy
chuyến du lịch bụi cho tôi tận mắt thấy bên Trung Quốc, sự lưu thông xe gắn máy
ở các thành phố lớn hạn chế đến mức tối thiểu. Họ bảo lắm xe gắn máy chỉ làm
loạn thành phố. Làm ăn kinh tế ở họ rộn rã nhưng trong trật tự. Ai cần dùng phương
tiện cơ giới, xin mời đi xe buýt. Ai thích riêng tư, trước khi sắm cái ô tô của
mình, hãy cứ bằng lòng với cái xe đạp. Các đường phố vận hành như một cỗ máy
khổng lồ. Con người hiện ra với vẻ đẹp của sự bình thản tự tin.



Làm sao để có ngày dân ta thoát khỏi chiếc xe gắn máy bây giờ? Một câu hỏi như
thế đến với tôi từ mấy năm nay và càng ngày càng cảm thấy không có lời giải
đáp. Thoát khỏi xe máy với nghĩa tổ chức lại mối quan hệ giữa người với người
trong xã hội. Để sự giao lưu thông thoáng. Mà cũng để mang lại những quân bình
trong tâm lý con người. Mỗi cá nhân sẽ không loay hoay cạnh tranh với người đi
bên cạnh mình. Ta biết phối hợp với người khác để làm việc. Và cả xã hội sẽ
nhịp nhàng vận động về phía trước.



Vừa nghĩ tới, đã thấy xa xôi lắm, cái sự giải thoát đó!


 Nỗi buồn phiền ngán ngẩm với ngày hôm nay lặp
đi lặp lại thực đã hóa nhàm.


Sự sùng bái hiện tại đang là phương
thuốc làm dịu lòng người, ai hơi đâu mà trăn trở về cái chuyện vặt là chiếc xe
gắn máy?



Trong lúc nghĩ ngợi lẩn mẩn nhìn sang các đô thị Trung Hoa (hoặc gần đây là
Miến Điện), tâm trí tôi lại còn nảy ra một câu hỏi khác:



Cũng xuất phát từ những thành phố ken đặc xe đạp như ta, sao họ lại sớm có cái
quyết định thông minh như vậy?



May quá lần này tôi không bí nữa. Câu trả lời cho tôi đã nằm sẵn trong cuốn 100 danh nhân có ảnh hưởng đến lịch sử Trung
Quốc
(Nguyễn Văn Dương dịch, 2002) phần viết về Triệu Ung.



Ông này là vua một nước nhỏ thời Chiến quốc, chủ trương nhiều cải cách, trong
đó có lối ăn mặc.



Nguyên trước đó, dân Triệu cũng như dân Hoa Hạ nói chung sống theo một nhịp
thong thả chậm chạp. Họ mặc lối cổ, áo dài tay, thân rộng thùng thình và đề lên
thành lễ nghi. Ăn mặc như thế để cưỡi ngựa bắn cung thật hết sức bất tiện.
Trong khi đó quân Hồ - một dân tộc thiểu số phía Bắc - quần chẽn, áo ngắn, ôm
chặt lấy người. Y phục gọn gàng, nên thiện chiến cũng không phải lạ.



Sau khi khảo sát kỹ càng, Triệu Ung buộc từ người lính ngoài chiến trường tới
văn võ bá quan trong triều, phải thay đổi phục trang ăn mặc theo kiểu người Hồ.



Nên biết là trong trường hợp này, người cải cách chịu áp lực lớn từ chung
quanh. Có người nói: “Mặc y phục phương xa, làm mất nền giáo hóa cổ, làm thay
đổi đạo lý”.


Theo họ, phong tục xưa đã vậy, nay
không có quyền thay đổi.


Triệu Ung đáp lại: “Vì lợi ích của
đất nước, bất tất phải theo phép xưa”. Và trong bàn tay nhào nặn của ông, nước
Triệu trở nên một xứ sở khác.



Mẩu chuyện trên thường trở đi trở lại trong tâm trí tôi bởi lẽ nó cho thấy sự
đồng bộ của đời sống. Một thời đại thường được đánh dấu bằng những tư tưởng mà
người ta phát biểu, bằng những phát minh sáng kiến lớn lao. Nhưng chính những
chuyện tưởng là nhỏ nhặt như ăn mặc, đi lại, cùng là nhu cầu thay đổi tìm ra
cái tối ưu trong những phương thức sinh hoạt... cũng là một thứ chỉ số cho thấy
người ta đang ở chặng đường nào của lịch sử.



Danh nhân một nước thường được hiểu là các nhà hoạt động chính trị, quân sự,
các nhà triết học, nhà tư tưởng, văn gia, thi gia… Nhưng trong cuốn 100 danh nhân có ảnh hưởng đến lịch sử Trung
Quốc
nói ở đây, bên cạnh những cái tên như Tần Thủy Hoàng, Khang Hy, Càn
Long, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lỗ Tấn… tôi đọc thấy có một vài trường hợp lạ như Công
Thâu Ban, thường gọi là Lỗ Ban, tổ sư nghề mộc và nghề xây dựng, hoặc Hoàng Đạo
Bà, là người có công cách tân hệ thống công cụ dệt vải, nâng cao kỹ thuật dệt.



Và tôi đọc thấy trường hợp Triệu Ung. Các nhà sử học sau này ghi tên ông vào
lịch sử như một người mang lại biến đổi đánh dấu một thời đại, do đó đáng gọi
là vĩ nhân.



Tôi không ghi được xuất xứ, nhưng nhớ có một bài báo đã viết rằng một trong
những phát minh lớn nhất của nhân loại hiện đại là phát minh ra cái hố xí tự
hoại.



Người Trung Hoa cũng có lối nghĩ thiết thực tương tự.



Còn ở ta thì sao? Các đầu óc ưu tú của nước ta thường chỉ tập trung vào đánh
giặc và làm thơ. Từ xưa đến nay, bao thời đã vậy. Nói một chuyện nhỏ: có lẽ trừ
vài nghề đặc biệt như nghề dệt, còn ở các làng thủ công Việt Nam, người ta
thường bày ngay đồ nghề trên nền nhà, và ngồi trên những chiếc ghế lè tè sát
mặt đất mà hành nghề. Bao nhiêu nước chảy qua cầu, chưa thấy ai nghĩ chuyện
thay đổi.









Đã in TBKTSG , in lại trong Những
chấn thương tâm lý hiện đại




Share on Google Plus

About Unknown

Bài viết này được chia sẻ bởi Unknown.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét